Thời Ðệ nhị Thế chiến. Vài trò của OSS.
OSS. Office of Strategic Services, tiền thân của CIA, được thành lập bởi quyết định ngày 13.6.1942 của Tổng thống Franklin Roosevelt. Bộ Tham mưu Liên quân không mấy hưởng ứng mặc dù nắm quyền kiểm soát cơ quan. William Donovan là Giám đốc đầu tiên. OSS có trách vụ thực hiện các công tác bán quân sự mật như tình báo , chiến tranh tâm lý , hổ trợ các phong trào chống đối địa phương, tổ chức và huấn luyện quân du kích tại những xứ Âu châu và Á châu bị Ðức Quốc Xã và Nhựt chiếm đóng. Hồ Chí Minh bắt liên lạc được với nhóm OSS ở Côn Minh và kết thân với Thiếu tá Archemides L.A. Patti mà nhiệm vụ chính là cứu các tù binh của phe Ðồng minh. Patti chuyển cho TT Truman một bức thơ của Hồ (không được trả lời), giúp Hồ thảo bản Tuyên ngôn Ðộc lập, cung cấp võ khí và giúp huấn luyện một số cán bộ Việt Minh. Hồ cũng tiếp xúc với Trung tá OSS Peter Dewey và tướng Không quân Claire Chennault, người sáng lập toán Cọp Bay, Flying Tigers.. Từ OSS xuất thân những chuyên gia tình báo gạo cội HK như Edward Lansdale, William Colby, John K. Singlaub, Lou Conein...
CIA thay thế OSS, hoạt động tại Việt Nam (1954- 1960)
Khi Thế chiến chấm dứt, Harry Truman giải tán OSS. Luật An ninh Qu6c gia năm 1947 thành lập cơ quan CIA, Central Intelligence Agency. Hai quyết định số NSC 4 và 4A của Tổng thống giao cho CIA điều hành nhiều vấn đề thuộc an ninh quốc ngoại.
Thập niên 40 và 50 là thời kỳ "vàng son" của CIA. Ðúng vậy, ở Phi Luật tân, Ðại tá Lansdale thành công giúp Ramon Magsaysay dẹp quân phiến lọan Huks và đắc cử Tổng thống năm 1953. Tại Iran và Guatemala, CIA giựt giây cuộc lật đổ hai nhà độc tài Mohammed Mossadegh (1953) và Jacobo Guzman (1954). Tuy nhiên CIA thất bại âm mưu gây rối ở Estonia, Latvia, Lithuania, Ba Lan, Ukraine và Albania thuộc khối Xô Viết.
Các công tác chống Bắc Việt bắt đầu năm 1954, sau ngày Hiệp định Genève chia đôi tạm thời VN tại vĩ tuyến 17 để chuẩn bị bầu cử tự do năm 1956. HK cũng như Miền Nam không ký vào văn kiện. Dân hai miền Nam-Bắc có 300 ngày để định cư. Lansdale (được TT Eisenhower phái qua VN hoạt động sau ngày Ðiện Biên Phủ thất thủ 7.5.1954) thừa cơ hội cho đổ bộ ở ven biển Bắc Việt vài nhóm biệt kích qua những cuộc hành quân bí mật marops, maritime operations. Hồ Chí Minh ra lệnh cho 10.000 cán bộ ở lại Miền Nam và bũa rộng tại đây một mạng lưới gián điệp.
Năm 1956, CIA giúp tổ chức Nhóm Quan sát bán quân sự đầu tiên, the First Observation Group nằm ngoài hệ thống chỉ huy của Quân đội VNCH và do TT Diệm điều động,. Nhóm này công tác bên kia vĩ tuyến 17 để lấy tin và phá huỷ hệ thống liên lạc của địch. Năm 1958, có một thỏa ước Diệm-CIA để đưa biệt kích độät nhập Bắc Việt. Ngày 28.1.1961, trả lời câu hỏi của TT Kennedy, Giám đốc CIA Allan Dulles cho biết kết quả dưới mức mong đợi. Theo phân tích gia Herbert Weisshart, trong khối CS - nếu sánh với Nga sô, Trung quốc, Ðông Ðức và Bắc Hàn. được CIA mệnh danh quốc gia "phản gián/ vô thừa nhận, counterintelligence states, denied states" - thì Bắc Việt là nơi khó thực hiện nhất tâm lý chiến và công tác bí mật. Tình trạng này có nhiều lý do: Tại BV không thể lập khu kháng chiến maquis, kiểu Pháp thời chiến, do bên ngoài tiếp tế vì dân chúng bị nhồi sọ và hàng ngủ hoá triệt để. Mặt khác, bộ máy công an CS kềm kẹp sít sao thành thị, thôn quê đến hải phận; biên giới bị khoá chặt và không có sự giao thương, trao đổi tin tức, du lịch giữa hai miền Nam-Bắc. Bởi thế, CIA dồn 90% nổ lực vào Miền Nam. Ðã có một lúc Lansdale đề nghị tổ chức tại Bắc Việt một phong trào kháng chiến chống cộng để tạo rối loạn như ở Hung Gia Lợi năm 1956. Bộ Ngoại giao và CIA bác ý kiến này, cho là quá bạo, có thể gây đụng độ với Nga, Tàu và khai mào thế chiến.
Tổng thống Kennedy khởi đầu chiến tranh bất quy ước (1961)
Trong phiên họp 28.1.1961 tại Hội đồng An ninh Quốc gia, J.F Kennedy – vưà đắc cử Tổng thống - tuyên bố ông muốn những cuộc hành quân biệt kích được tổ chức bên trong Bắc Việt., mở màn một giai đọạn "đấu tranh khó hôn chiến tranh (quy ước) trên nhiều phương diện...", bởi thế "...cần nghiên cứu những gì Mao Trạch Ðông và Che Guevara đã viết về chiến tranh du kích." Ngày 27..4.1961, tai Hội đồng, tướng Edward G. Lansdale, bạn thân của TT Ngô Ðình Diệm, thuyết trình rằng Việt cộng đang thành công gia tăng khủng bố và du kích tại Miền Nam VN với chủ đích lật đổ chế độ hiện lung lay. Theo lời kể lại của Richard Helms – sau này trở thành Giám đốc CIA – Bộ trưởng Tư pháp Robert Kennedy, Bộ trưởng Quốc phòng McNamara, hai anh em Bundy, Walt Rostow và tướøng Maxwell Taylor ủng hộ hăng hái ý kiến của Tổng thống nhưng không có kinh nghiệm nhiều về vấn đề.
TT Kennedy chỉ định một ban nghiên cứu do Roswell Gilpatric,Thứ trưởng Quốc phòng, chủ tọa và gồm có Lansdale, Rostow,Alexis Johnson và Desmond Fitzgerald, để thảo một "Chương trình Hành động cho VN, Program of Action for Vietnam". Phúc trình, nạp đầu tháng 5.1961, cho biết lối 58% lãnh thổ Miền Nam bị CS kềm toả. Phúc trình đề nghị chấn chỉnh gấp hệ thống an ninh và phát triển trong xứ, kèm theo một kế hoạch xâm nhập bí mật Miền Bắc. Ngày 11.5.1961, TT Kennedy chấp nhận và nóí rỏ trong quyết định hành pháp NSAM 52 "Mục tiêu của HK là .ngăn CS thôn tính Miền Nam; dựng tại đây một xã hội dân chủ vững vàng bằng cách áp dụng cấp bách một loạt biện pháp mật về mặt quân sự, chính trị, kinh te ávà tâm lý"
Cuộc chiến bất quy ước chống Bắc Việt trải qua hai giai đọan từ Kennedy cho đến Nixon.
A –Giai đọan 1961 -1962:
Luật sư William Colby, tốt nghiệp Princeton, nói rành tiếng Pháp, là trưởng đoàn CIA tại Saigon từ 1959. Ông chủ trương "gia tăng sự bất ổn tại Bắc Việt để lập thăng bằng với tình trạng thiếu an ninh mà cộng sản tạo ở Miền Nam." Gilbert Layton điều khiển ngành đặc công. Vì phương tiện giới hạn cho nên CIA chỉ đưa được trên vĩ tuyến 17, bằng đường bộ, đường biển và thảy dù, lốâi 30 biệt kích tổ chức thành toán (teams), mổi toán 6 người, và một số gián điệp viên hoạt động đơn độc (singletons). Lực lượng đặc công gồm đa số người Bắc di cư vào Nam sau Hiệp định Genève 1954. Thoạt tiên, họ có trách vụ " tổ chức trên đất địch một căn cứ du kích" nhưng về sau, vào đầu năm 1962, vì vấp phải khó khăn thực tế, Colby phải đổi hướng công tác của họ thành tình báo, phá hoại, chiến tranh tâm lý và rải truyền đơn "Gươm Thiêng Ái Quốc". Dù đổi nhứ thế, kế hoạch vẫn thất bại nặng , theo phúc trình của Ủy ban 303, The 303 Committee, được Toà Bạch ốc đặt ra để trắc lượng chiến dịch: Gần tất cả các biệt kích vượt tuyến bị CS bắt giử, tra tấn, thủ tiêu hay buộc cọng tác với chúng. Ủy ban điều tra nêu ra nhiều lý do thất bại: Hoa kỳ giao phó cho Chính quyền Saigon tuyển mộ trực tiếp các biệt kích nên không kiểm soát được về vấn đề nội gián. Một khi lọt vào Bắc Việt họ không liên lạc dược với nhau và bị dân địa phương nhận diện mau chóng; CS gài tình báo vào phiá đối phương. Phương cách thả dù các đặc công mà không chuẩn bị cho họ một cứ điểm đổ bộ an toàn để họat động trong lòng địch – The Blind Drop concept – tỏ ra tai hại. Theo lời kể lại của cựu Thiếu tá biệt kích Trần Khắc Kính, hiện ngụ tại Californie, đêm 2.6.1961, Trung tá không quân Nguyễn Cao kỳ lái chiếc máy bay C47 bay ra Bắc Thái thả dù toán Castor.
Tai hại nhất là Averell Harriman, "thầy dùi" của TT Kennedy, vận động để ba phe Lào (Quốc gia-Cộng sản -Pathet) , Nga sô và Bắc Việt chấp nhận trung lập hoá xứ Lào tại Hội nghị Genève. Theo Harriman, giải pháp trung lập hoá ít nguy hiểm hơn chọc tức Bắc kinh bằng cách tấn công trực tiếp Bắc Việt. Sau ngày ký Hiệp ước 6.7.1962, Mỹ rút hết quân. Hànội rút tượng trưng ...40 cán bộ (!)ä và gài lại 10.000 du kích ở Thượng Lào. Dùng Lào làm bàn đạp, CSVN gấp mở rộng đường mòn Hồ Chí Minh (khai thông từ thập niên 50) để ào ạt xua quân vào Nam dưới mũi của Ủy ban Kiểm soát Quốc tế. Chỉ trong tháng 6.1962 mà thôi, Hànội đưa được 1.500 lính chính qui qua ngã Lào và Miên. Thế quân sự nghiêng hẳn có lợi về phiá Bắc Việt.
B – Sau 1962: Ngũ Giác Ðài thay thế CIA.
Cuối 1961, các phúc trình báo động của Ban Thẩm lượng Tình Báo Quốc gia , National Intelligencve Estimate (hay NIE) thúc Kennedy dứt khoát chấm dứt công tác bán quân sự của CIA ở Bắc Việt và chuyển trách nhiệm qua Ngủ Giác Ðài. Sự thất bại đổ bộ tại Vịnh Con Heo, Bay of Pigs Cuba, ngày 28.6.1961 để mưu lật đổ Fidel Castro, càng chứng rỏ CIA bất tài. Tháng bảy 1962, McNamara triệu tập đại diện của Bộ Quốc phòng, Ban chỉ huy Thái Bình Dương, CIA, Bộ Ngoại giao và cơ quan MACV tại Honolulu nghiên cứu kế họach Operation Switchback. Tướng Harkins , xếp MACV – con gà nòi của Maxwell Taylor tại Sàigòn - tỏ ra rất lạc quan mặc dù cuối 1962, 300 du kích Việt cộng kháng cự thành công tại Ấp Bắc, Ðồng Tháp Mười, với Sư đoàn 7 Bộ binh của VNCH. Báo chí và công luận HK xao xuyến mạnh về trận đánh này.
TT Johnson cho thành lập SOG (1964) . Kế họach OPLAN 34A
Vì hệ thống biệt kích trên vĩ tuyến 17 do CIA sắp xếp nên cần có một giai đọan chuyển tiếp, CIA và Quân đội cọng tác. Giai đọan này kéo lằng nhằng cho đến 1964. Ngày 24.1.1964, Bộ Tư lệnh MACV tại Sàigòn ra công văn thành lập cơ quan Nghiên cứu và Quan sát SOG, để thi hành kế hoạch Operation Plan trên đất Bắc Việt. OPLAN 34A được TT Johnson chấp thuận, 4 ngày sau vụ ám sát Kennedy, chiếu đề nghị của McCone ,Mc Namara, Rusk, Bundy. và tướng Krulak. Kế họach này – do Partain, Woolard, McLane và Kingston liên tiếp phụ trách - gồm có 72 lọai biện pháp để thực hiện trong 12 tháng, nhằm 2,062 mục tiêu.
Về sau, Giám đốc CIA William Colby có nhắc lại: "Lúc đó, tôi đã lưu ý McNamara các chiến dịch này không thể thành công. Quan điểm của phiá Quân đội (HK)ï là CIA hành động quá ít, quá chậm và không đi sâu được vào khối dân chúng ở Bắc Việt. Ðây là McNamara cổ điển: Các con số trả lời cho tất cả, Numbers are answers to everything! Ôâng ta tin rằng chỉ cần gia tăng ào ạt những cố gắng hoạt động bí mật thì sẻ gây rối lọan bên trong Bắc Việt và có thể buộc Hồ Chí Minh ngưng ủng hộ kháng chiến ở Miền Nam!" (đọc "Secret War" trang 36):
Kế họach OP 34 tổ chức bốn toán biệt kích mang bí danh Bell, Remus, Tourbillon và Easy, tổng số gồm lối 30 người . Toán thứ năm, Europa, được CIA đưa ra Bắc vào tháng hai 1962, đã ngưng liên lạc bằng ra-dô và coi như mất luôn. Ngoài ra, CIA còn xử dụng một gián điệp viên có bí danh Ares. CIA cũng trao lại cho SOG trại Long Thành đang huấn luyện gần 169 cán bộ và một vài trụ sở ở trung tâm Sàigòn. McNamara và Hoa Thịnh Ðốn hối thúc SOG bắt tay vào việc. Từ tháng 4.1964 cho đến tháng 10.1967, gần 250 biệt kích chia thành 30 toán, được gài thêm vào Bắc Việt. Nếu cọng với số người của CIA họat động sẳn thì tổng số lên đến 500. Cuối 1967, có tấùt cả 7 toán đặc công: Remus, Tourbillon, Easy, Eagle, Hadley, Red Dragon, Romeo, và một gián điệp mang tên Ares. Năm 1968, cơ quan DIA, Defense Intelligence Agency, trong đó có cả đại diện CIA, tổng xét thành quả và kết luận bi quan rằng phiá địch, trong gần bảy năm, chẳng những phá vỡ được các toán nóí trên mà còn xử dụng họ chống lại Miền Nam dưới nhiều hình thức (phản gián, thông tin xuyên tạc, phỉnh gạt....).
Các toán đặc nhiệm được đưa ra Bắc Việt vào những lúc khác nhau, không họat động chung một chổ, đảm nhận công tác riêng biệt và không liên lạc với nhau vì cần bảo mật tối đa : Toán Tourbillon, tại vùng Tây Bắc từ tháng 5.1962, để phá hoại và lấy tin – Toán Easy tại Sơn La từ tháng 8.1963, để liên lạc với sắc dân Mèo-Thái, tổ chức họ chống chính phủ – Toán Remus, trong vùng Ðiện Biên Phủ, từ tháng tư 1962, để thiết lập căn cứ và làm tình báo – Toán Eagle, gần biên giới Hoa Việt, vào tháng 6.1964, để tìm cách phá hoại hai con đường số 1 và 4, thiết lộ Nam Quan và sân máy bay Mai Pha – Toán Romeo, ở phiá Bắc khu phi chiến DMZ , từ tháng 11.1965, để theo dỏi các đoàn quân xa trên quốc lộ 103 – Toán Haddley, cũng ở phiá Bắc DMZ, để quan sát sự di chuyển của địch trên quốc lộ 8 nối liền với các trục giao thông số 15, 81, 12 và 121 dẫn sang Lào. – Sau hết, toán Red Dragon, từ tháng 9.1967, để hoạt động phá hoại và thông tin trong hai tỉnh Lào Cai và Yên bái.
Giai đọan Nixon. Hoa kỳ rút quân. Kế hoạch OP 35 chấm dứt (30.4.1972)
Ðầu năm 1969, TT Nixon nói với Bộ Tham mưu: "Tôi sẽ chấm dứt chiến tranh. Mau chóngï." Ông gởi thông điệp cho Hànội đề nghị BV và HK đồng rút binh khỏi Miền Nam. Ðể gây áp lực, Nixon cho thả bom các đặc khu CSVN tại Miên. Hànội không nao núng, xua thêm quân vào dưới vĩ tuyến 17 và tuyên bố sẽ kiên trì đàm phán ở Hội nghị Paris "until the chairs rot, cho đến khi ghế mục!" Nixon ra lệnh cho Kissinger nghiên cứu trả đũa bằng cách phong tỏa các hải cảng địch và gia tăng oanh tạc BV. Nhưng Kissinger lại đề nghị "việt nam hoá" chiến tranh. (còn gọi là jaunissement, yellowing the war). Tháng mười .1968, chuyên gia Anh chống du kích Sir Robert Thompson – từng thành công dẹp lọan tại Mã Lai trong thập niên 50 và đã giữ vai trò cố vấn ở VN từ 1961 đến 1965 theo lời mời của Kennedy - đưa ra giải pháp này và cho biết Miền Nam, với một triệu quân tại ngũ, có thể, trong vòng hai năm, tái lập hoà bình nếu Mỹ tích cực giúp Chính phủ Sàigòn về vũ khí và kinh tế. Theo Thompson, chi phí viện trợ này vẫn còn rất rẻ vì dưới thời Truman, Mỹ đã xài tới 150 tỷ đô la. Trên thực tế, đây chỉ là một giấc mơ vì thời hạn hai năm quá ngắn. Hơn nửa, năm 1970, Nixon cho rút 150,000 lính Mỹ, bất chấp MACV báo động quyết định này sẽ gây khó cho thủ tục việt nam hoá.
Tháng hai 1970, dưới sự chỉ huy của Ðại tá Don Schungel, những toán thám thính Prairie Fire. thuộc kế hoạch OP 35, thực hiện 441 chuyến ï quan sát tại Lào, dọc đường mòn Hồ Chí Minh. và gặp sự chống cự mãnh liệt của các toán truy nã, tracker teams, Bắc Việt. 12 quân nhân Mỹ tử vong , 98 bị thương và 4 mất tích.
Tại Cam bốt, trong 4 tháng đầu năm 1970, kế họach thám sát Salem House khám phá BV lập nhiều căn cứ đột nhập và trạm tiếp viện gần biên giới Miên-Việt. Ngày 18.3.1970, tướng Lon Nol lật đổ Sihanouk. Cuộc hành quân hổn hợp Mỹ-Viêt mang tên Operation Bình Tây trên đất Miên phá hủy, ít nửa tạm thời, hệ thống quân sự địch. Ngày 1.5.1970, sinh viên phản chiến của Kent State biểu tình chống đối rầm rộ ở Ohio. Tiếp theo , dân chúng xuống đường tại Washington. Kết quả là, kể từ 30.6.1970, cơ quan MACVSOG không còn được phép dùng biệt kích Mỹ trên đất Miên. Tổng kết, chiến dịch Salem House đã thực hiện 577 lần xuất quân. Tất cả – trừ 19 – có tính cách thám sát.
Ðể chuẩn bị tái ứng cử Tổng thống năm 1972, Nixon lấy một quyết định ngoạn mục: cắt đường mòn Hồ Chí Minh tại Lào dài theo quốc lộ 9 và tiêu hủy cơ sở BV trong vùng. Tướng Creighton Abrams, tư lệnh MACV, đề xướng chiến dịch Lam Sơn 719 do hai tướng Hoàng Xuân Lãm và James Sutherland điều động. Skip Sadler, người chỉ huy chót của MACVSOG, nói với tướng Lãm: " Mối lo lớn nhất của tôi là làm cách nào ông sẽ rút khỏi địa ngục này." Ðể dọn đường cho chiến dịch và đánh lạc hướng đối phương, các đội đặc công SOG thả dù những hình nộm , chất nổ và truyền đơn ở phiá Tây Khê Sanh và trong thung lủng Ashau nhưng tướng Võ Nguyên Giáp không để bị gạt và sẳn sàng ứng chiến với 4 sư đoàn chính quy. Lam Sơn 719 bắt đầu ngày 8 tháng hai. Sau 6 tuần chiến đấu, Quân đội VNCH tổn thất 50% và Việt cộng kiểm soát được phần đất phiá tây của Quân khu 1 và vùng DMZ. Con dường tiến về Huế không còn bị ngăn. BV chuẩn bị tổng tấn công vào mùa Phục sinh 1972.
Ðại tá Roger Pezzelle, người chỉ huy cuối cùng kế hoạch đặc công OP 35, than phiền bị Hoa Thịnh Ðốn bó tay vì từ nay, mổi lần hành quân thám sát tại Miên hay Lào đều phải xin phép trước ba hôm Bộ Tham mưu Liên Quân HK ngang qua MACV. Chán nản, ông nói: "Isn’t it ridiculous?". Ngày 30.4.1972, bằng một thông cáo, Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương ra lệnh chuyển giao tất cả chương trình SOG cho Nha Giám đốc Kỹ thuật Chiến lược của VNCH. Từ tháng giêng đến cuối tháng ba, tai mắt của MACV trên lãnh thổ CS không còn nửa.
Kinh nghiệm từ một sự thất bại. Vai trò tương lai của chiến tranh bất quy ước
Ðến nay, về cuộc chiến âm thầm chống Bắc Việt, có nhiều phóng sự giật gân của tác giả ngoại quốc hay hồi ký phiến diện của một số cựu biệt kích từng bị CS giam cầm. Xuyên qua hồ sơ vừa được Bộ Quốc phòng bạch hóa - có thể chưa nói hết - thế giới nhận rỏ hơn vì sao Hoa kỳ thua ở VN về cà hai mặt, chiến tranh quy ước và chiến tranh bất quy ước. Những lý do nào khiến Mỹ thất bại trong chiến tranh thứ hai?
1 – Thiếu chủ trương thích ứng, đồng nhất và liên tục, thiếu lãnh đạo ở cấp chóp bu. Eisenhower dùng chiến tranh mật như một lợi khí hệ trọng để thắng thế trong Chiến tranh lạnh. Kennedy, quá lý tưởng, áp dụng các phương pháp chiến tranh mật một cách năng nổ nhưng không nghiên cứu kỹ quyết tâm và phản ứng của địch. Ðể cứu vản chương trình chấn hưng xã hội "The Great Society" của ông tại Mỹ và vì bị xô đẩy bất thần vào một tình trạng khủng hoảng sau cái chết của Diệm và Kennedy, Lyndon Johnson thận trọng đối phó với Hànội theo đường lối "graduated answer/graduated pressure, trả lời/gây áp lực tùy thời " . Chính sách "gà nuốt giây thung" này bó tay SOG. Với Nixon, covert action, cuộc chiến đấu âm thầm là một chiến thuật để thoát khỏi bế tắc đối ngoại. Nói tóm tắc, HK đánh mà không muốn thắng, Công luận HK không đủ nhẫn nại để chiụ đựng một cuộc chiến dai dẳng. Ấn tượng Nga- Tàu ám ảnh không thôi Hoa Thịnh Ðốn.
Mặt khác, CIA thất sủng không hết lòng côïng tác với SOG trong giai đoạn chuyển tiếp 1962.- 1964. Nghiêm trọng hơn, các Tư lệnh liên tiếp của MACV, từ Paul Harkins, Maxwell Taylor, William Westmoreland cho đến Creighton Abrams, vẫn coi chiến tranh quy ước là biện pháp hữu hiệu duy nhất và. không tin chiến tranh mật giải quyết được gì. Quân đội từ chối sáp nhập SOG vào các kế họach chiến tranh. Ngoài ra, Ðại sứ HK William Sullivan tại Vientiane không mấy sốt sắng giúp biệt kích SOG độât nhập Lào để khuấy phá đường mòn Hồ Chí Minh, viện lẽ Hiệp ước Genève 1962 đã trung lập hoá nước này. Cấp chỉ huy cơ quan SOC – Blackburn, Singlaub và Cavanaugh - than phiền thái độ dè dặc của Sullivan gây khó khăn cho họ không ít.
2 – Thiếu sự huấn luyện và kinh nghiệm tâm lý cần thiết. Thuyết chiến tranh bất quy ước, unconventional warfare doctrine, đến nay vẫn được xem như một phần ăn khớp với chiến tranh nóng và không có vai trò then chốt trong chiến tranh lạnh. Du kích không có mặt trận. Có nhiều khác biệt sâu rộng giữa những gì Special Warfare School tại Fort Bragg dạy suốt 15 tuần lễ cho các sĩ quan thuộc Lực lượng Ðăïc biệt và thực tế chiến trường ở Bắc Việt trong phạm vi thám báo, chiến tranh tâm lý, chống khủng bố, phá hoại hậu cần địch, phương thức để sống sót trong nghịch cảnh..vv..Công tác tiếp vận các toán xung kích vượt tuyến vấp phải muôn vàn trở ngại. Chương trình huấn luyện, tổ chức theo lối Mỹ tại các trường biệt kích Thủ Ðức và Long Thành, không thích ứng vói nhu cầu chiến lược và chiến thuật. Chính phủ Miền Nam không có tiếng nóí quyết định trong các cuộc hành quân bên kia vĩ tuyến. Ai chi địa thì chỉ huy! Nội gián len lõi vào bộ máy đánh giặc phíùa quốc gia. Ðể làm việc với đồng minh Mỹ về biệt kích, Chính phủ Sàigòn có Phòng Liên lạc Phủ Tổng thống (thời Ngô Ðình Diệm) đổi thành Nha Kỹ thuật năm 1963, do một sĩ quan cấp tá chỉ huy: Lê Quang Tung, Trần Văn Hổ, rồiVương Văn Ðông (được lối 3 tháng), sau hết Ðoàn Văn Nu.
Nói tóm tắc, Mỹ thua chiến tranh quy ước lẫn bất quy ước vì dốt tâm lý Á châu, không nắm vững chiến thuật du kích, ngạo mạn, thẩm lượng sai ảnh hưởng của Bắc kinh và Mạc tư khoa đối với Hànội, đoán trật quyết chí của CSVN và coi thường đồng minh Việt Nam Cọng hoà. Miền Nam là con cờ thí trong chiến lược toàn cầu Hoa kỳ. "Ðất nước có thể tránh được chăng số mạng hẩm hiu nếu nhà cầm quyền ở Sàigon, thay vì vọng ngoại, biết sáng suốt tạo một cái thế dân tộc vững chắc và chọn con đường dân chủ thích hợp? ", người quốc gia vẫn tự hỏi như thế, tuy đã chậm. Dĩ vãng, dù sao, cũng là ông thầy tốt nếu không uổng phí bài học quá khứ .
Hiện không có thống kê chính thức về số cãm tử quân hy sinh tại BV. Phỏng chừng 500 người mất tích. Riêng kế họach OP 35 gồm có ba toán tổng cọng 110 sĩ quan và 615 đặc công.Trong mỗi đội thám sát có ba người Mỹ và 250 Việt. Từ tháng hai đến tháng tư 1973, Hànội phóng thích 591 tù binh HK, không có sĩ quan SOG nào. Vận mệnh của những chiến sĩ đặc nhiệm ra sao? Thời Kennedy, tổng nhân số Lực lượng Ðặc biệt lên đến 10.000 người. Thập niên 70, sụt xuống còn 3.600. Chính quyền Mỹ muốn quên họ đi, viện lẽ.... không có tuyển mộ họ công khai.(!). Theo Sedgwick Tourison ,tác giả quyển sách "Secret Army, Secret War", nxb Marine Institute, 1994, nhờ Ðại sứ HK David Lambertson ở Bangkok can thiệp mạnh, 15 người, cựu biệt kích VN đầu tiên được Sở Di cư và Nhập tịch cho vào Mỹ năm 1995. Gần đây, Quốc hội biểu quyết trợ cấp 40.000 đô cho mỗi người.
******
Chiến tranh lạnh đã chấm dứt, chiến tranh nóng phản ý nguyện hoà bình của nhân loại. Hai nhóm chủ trương và chống đối chiến tranh bí mật vẫn tranh luận sôi nổi. Thời thế mới, - nửa lạnh nửa nóng -, đòi hỏi biện pháp mới, thực tế và hữu hiệu hơn. Răn đe suông hay xử dụng bừa bải võ khí tối tân không thích hợp. Tháng 11.1986, thời TT Reagan, Quốc Hội Mỹ biểu quyết thành lập SOCOM, US Special Operations Command. Cơ quan này, đặt dưới quyền điều khiển của một tướng bốn sao, có trách vụ thảo hoạch đường lối và chăm lo các vấn đề huấn luyện, điều nghiên kế hoạch và .trang bị các lực lượng tác chiến đặc biệt, special operations forces hay SOF. Nói cách khác, chính quyền HK công nhận cần tổ chức và xử dụng chiến tranh bí mật để đối phó những trường hơp "tranh chấp có cường độ thấp, low intensity conflicts hay LIC", thường xảy ra ngày nay trên địa cầu với nhóm quốc gia bất trị (còn gọi là "nước du côn, rogue nations") thích xử dụng vô tội vạ khủng bố, vũ khí giết số đông và xúi dục phiến lọan. Rắn rít độc hại hơn khủng long. Ngoài ra, sắc tộc, tôn giáo và tội ác có tổ chức cũng gây bất ổn dễ dàng. Tài khóùa 1987, SOF nhận được 1,6 tỷ trong ngân sách quốc phòng 300 tỷ đô. Thời hậu chiến tranh lạnh khó kiểm soát hơn cả chiến tranh lạnh. Rối rấm có thể nổ bất luận ở đâu, lúc nào, vì mọi lý do.
Trong tương lai, về an ninh, Hoa kỳ sẽ trực diện nhiều thách thức quốc tế mới. Cần điểu chỉnh và cập nhật hoá thường xuyên tân chính sách, chiến lược và phương tiện. Hoa Kỳ cũng sẽ gặp trở ngại và phiền toái gây thất vọng như ở Việt Nam. Kinh nghiệm đã qua giúp siêu cường này không tái phạm sơ suất củ. Mong lắm thay!
LÂM LỄ TRINH
Ngày 9.5.2001
Thủy Hoa Trang
THƯ TỊCH
• "The Secret War Against Hanoi" của Richard H. Shultz, JR.Harper Collins Publishers, 2000
• "Secret Army, Secret War" của Sedgwick Tourison, Marine Institute Publ. 1994
• "Early Covert Action on the Ho Chí Minh Trail" của Ken Conboy & James Morisson in VIETNAM, August 2000
• "Project Delta Disaster" của Ken Conboy & J. Morrison in VIETNAM, October 2000
• "Việt Nam, Histoire secrète d’une victoire perdue", par William Colby, Perrin , Paris , 1989
Tóm Lược Tiểu Sử
& Sự Hình Thành Nha Kỹ Thuật
Bộ Tổng Tham Mưu / Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
Bài Sưu Tầm của Bùi Thượng Khuê (*)
Thế Hệ 2 / Nha Kỹ Thuật
29 Tháng 4 Năm 2006
Theo bài viết của một số qúy Niên Trưởng trong gia đình Nha Kỹ Thuật (kể từ đây được viết tắt trong bài này là ‘NKT’) cùng với sự tiết lộ của những tài liệu và sách báo Hoa Kỳ, nói về cuộc chiến tranh ngoại lệ tại Việtnam (un-conventional warfare) nay đã được giải mật, thì NKT được thành hình trong khoảng thời gian từ cuối năm 1958 cho đến năm 1964. Nha Kỹ Thuật là một cơ quan tình báo chiến lược tối mật của miền Nam Việt Nam, trực thuộc Bộ Tổng Tham Mưu/QLVNCH, và được chính thức thành lập vào khoảng đầu năm 1964. Nhưng thực ra, trước khi Hiệp Ðịnh Genéve được ký kết vào năm 1954, người Pháp đã thành lập một số các cơ quan tình báo phản gián và chiến lược tại miền Nam Việt Nam. Sự hoạt động của các cơ quan tình báo này cùng với những biến chuyển quan trọng về chính trị lẫn quân sự dưới thời Ðệ Nhất Cộng Hòa do Hoa Kỳ chủ trương và thực hiện, đã ảnh hưởng trực tiếp đến vận mạng của quốc gia dân tộc nói chung, và liên hệ mật thiết đến sự hình thành của Nha Kỹ Thuật nói riêng.
Sau cuộc tổng tuyển cử của hai miền Nam-Bắc, Chính Phủ Ngô Ðình Diệm lên nắm chính quyền tại miền Nam Việt Nam vào năm 1954. Thành phần Nội Các của Chính Phủ Ngô Ðình Diệm ra đời vào ngày 7 tháng Bẩy năm 1954, và sau đó Hiệp Ðịnh Genéve được ký kết ngày 20 tháng Bẩy năm 1954, lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới phân chia 2 miền Nam-Bắc. Ðể đối đầu với nhà cầm quyền Bắc Việt, dùng chủ thuyết “Cộng Sản” và chính sách “ngu dân – chuyên chính vô sản hoá” để cai trị dân chúng miền Bắc và đồng thời để thực hiện những âm mưu quân sự lẫn chính trị để thôn tính miền Nam Việt Nam, ông Ngô Ðình Nhu, trong vai trò một người cố vấn chính trị cho Cố Tổng Thống Ngô Ðình Diệm, là người đầu tiên thành lập ra Ðảng Cần Lao, dùng chủ thuyết “Cần Lao Nhân Vị” để động viên tư tưởng và thu phục những thanh niên nam nữ có lòng yêu nước trong cộng đồng người Việt Quốc Gia, làm hậu thuẫn cho Chính Phủ Ngô Ðình Diệm chống lại Ðảng Cộng Sản và nhà cầm quyền Bắc Việt. Ngoài ra, ông Ngô Ðình Nhu và Cố Tổng Thống Ngô Ðình Diệm còn thành lập ra chương trình “Ấp Chiến Lược”, đã ngăn chận và bẻ gẫy chương trình “Du Kích Chiến” của nhà cầm quyền Bắc Việt tại miền Nam Việt Nam một cách rất hiệu qủa. Trong khuôn khổ và phạm vi tình báo chiến lược, ông Cố Vấn Ngô Ðình Nhu cùng với sự trợ giúp của Bác Sỹ Trần Kim Tuyến đã thành lập ra “Mặt Trận Gươm Thiêng Ái Quốc” để đối đầu với “Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam” của Việt Cộng, một công cụ của Ðảng Cộng Sản Bắc Việt tại miền Nam Việt Nam.
Như đã đề cập ở trên, trước khi Hiệp Ðịnh Genéve được ký kết, trong quân đội miền Nam đã có một cơ quan gọi là Phòng 6. Ðây chỉ là danh xưng vỏ bọc của một cơ quan tình báo phản gián mà người Pháp gọi là Sixieme Section. Trụ sở của Phòng 6 đặt tại Bà Chiểu tỉnh Gia-Ðịnh, hoạt động dưới quyền chỉ huy của Thiếu Tá Nguyễn Khánh (cựu Ðại Tướng). Vào ngày 8 tháng Chín năm 1954, Thiếu Tá Nguyễn Khánh bàn giao Phòng 6 lại cho Trung Tá Trần Ðình Lan. Trung Tá Lan theo nhóm của Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hinh thân Pháp, toan lật đổ Chính Phủ Ngô Ðình Diệm nhưng bất thành và do đó, Phòng 6 bị Chính Phủ Ngô Ðình Diệm chính thức giải tán nhân dịp người Pháp chuyển giao quân lính người Việt cho Chính Phủ Ngô Ðình Diệm vào ngày 11 tháng Hai năm 1955. Trong thời gian này, Chính Phủ Ngô Ðình Diệm bắt đầu thành lập Bộ Tổng Tham Mưu cùng bổ nhiệm các cấp chỉ huy và cải tổ lại Quân Binh Chủng trong Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa, thu gồm một bộ phận tình báo chiến lược của Phòng 6.
Ngay sau khi Phòng 6 bị giải tán, Chính Phủ Ngô Ðình Diệm thành lập Nha Tổng Nghiêm Huấn, trực thuộc Bộ Quốc Phòng để thay thế. Thiếu Tá Lê Văn Lung, nguyên Phó Giám Ðốc Phòng 6 được bổ nhiệm làm Giám Ðốc Nha Tổng Nghiêm Huấn/Bộ Quốc Phòng. Ðại Úy Trần Khắc Kính được thuyên chuyển từ Quảng Ngãi về làm Phó Giám Ðốc. Nha Tổng Nghiêm Huấn/BQP có 3 Sở chính:
1) Sở 32 được gọi là Sở Liên Lạc, có trách nhiệm khai thác cán bộ Cộng Sản nằm vùng, đưa người của ta vào hàng ngũ của địch hay ngược lại, kéo người của địch vào hàng ngũ của ta. Ðại Úy Nguyễn Khắc Bình (cựu Thiếu Tướng) nguyên là Chánh Sở 32.
2) Sở 42 được gọi là Sở Bảo Vệ, có trách nhiệm chính là tổ chức tình báo phản gián. Chánh Sở 42 là Nguyễn Ngọc Lâm, sau đó bị ám sát trên đường Pasteur (Công Lý). Ðại Úy Trần Văn Thăng (cựu Ðại Tá) được chỉ định thay thế trong chức vụ Chánh Sở 42.
3) Sở 52 được gọi là Sở Công Tác, có trách nhiệm hành quân thám sát, đột kích các đường giây xâm nhập và mật khu của Cộng Sản. Chánh Sở 52 là Nguyễn Văn Lý, rồi đến Ðàm Văn Qúy.
Danh xưng Sở Liên Lạc và Sở Công Tác đã ra đời từ đây trong cơ cấu tổ chức của Nha Tổng Nghiêm Huấn/BQP, vào khoảng tháng Hai năm 1955. Tuy nhiên, 2 Sở này đã phải trải qua rất nhiều thay đổi trong cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ, đường lối làm việc cùng cách hoạt động trước khi trở thành những bộ phận tình báo chiến lược quan trọng của Nha Kỹ Thuật, trực thuộc Bộ Tổng Tham Mưu/QLVNCH, được thành lập sau này trong thời Ðệ Nhị Cộng Hòa.
Cuối năm 1956, Nha Tổng Nghiêm Huấn/Bộ Quốc Phòng được giải tán để thành lập Sở Liên Lạc, trực thuộc Phủ Tổng Thống dưới thời Ðệ Nhất Cộng Hòa. Ðại Úy Lê Quang Tung (Cố Ðại Tá) lúc bấy giờ đang là Chánh Sở 2 An Ninh Quân Ðội tại Huế, được bổ nhậm và thuyên chuyển về làm Giám Ðốc Sở Liên Lạc/PTT. Ðại Úy Trần Khắc Kính được thuyên chuyển qua làm Phó Giám Ðốc. Sở Liên Lạc/PTT có trách nhiệm tổ chức, tuyển chọn và huấn luyện các cán bộ cấp chỉ huy để thành lập những bộ phận căn bản đầu não của Sở trong cuộc chiến tranh tình báo chiến lược bất quy ước, hay chiến tranh ngoại lệ tại Việt Nam. Như danh xưng, Sở Liên Lạc – Phủ Tổng Thống không nằm trong hệ thống chỉ huy của Bộ Tổng Tham Mưu hay Bộ Quốc Phòng, mà được đặt dưới sự cố vấn và chỉ đạo trực tiếp của Cố Tổng Thống Ngô Ðình Diệm, Ông Cố Vấn Ngô Ðình Nhu và Bác Sỹ Trần Kim Tuyến.
Sở Liên Lạc/PTT còn có một danh xưng vỏ bọc khác là “Trung Ương Cục” để đối đầu với “Trung Ương Cục Miền Nam” của Cộng Sản, còn được gọi là “Cục R”. Trụ sở của Sở Liên Lạc/PTT được đặt tại một khu vực phía sau Bộ Tổng Tham Mưu, gần Nghĩa Trang Bắc Việt và Sân Vận Ðộng Quân Ðội. Cố Ðại Tá Lê Quang Tung và Cố Ðại Tá Trần Khắc Kính là 2 người đầu tiên đã bỏ ra rất nhiều công sức để xây dựng một nền tảng vững chắc cho Sở Liên Lạc/PTT, có ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành và hoạt động của Sở Khai Thác Ðịa Hình, Phòng E45 hay Sở Bắc và Nha Kỹ Thuật sau này. Cũng trong gian đoạn này, Ðại Úy Trần Văn Hổ (Cố Ðại Tá) được bổ nhiệm làm Phó Giám Ðốc Sở Liên Lạc/PTT trong một thời gian ngắn. Ngày 1 tháng 11 năm 1957, một Liên Ðoàn “hành động” đầu tiên được thành lập, có danh xưng là Liên Ðoàn Quan Sát Số 1, đặt dưới quyền chỉ huy của Cố Ðại Úy Bùi Thế Minh và trực thuộc Sở Liên Lạc/PTT.
Vào khoảng cuối năm 1958, cơ cấu tổ chức của Sở Liên Lạc/PTT gồm có:
• Phòng 35 – Có nhiệm vụ tổ chức và chỉ huy hành quân, huấn luyện cán bộ, thanh tra các Trung Tâm Huấn Luyện cùng gởi nhân viên ra ngoại quốc thụ huấn, v.v... Phòng 35 do Ðại Úy Trần Khắc Kính, Phó Giám Ðốc Sở Liên Lạc/PTT kiêm nhiệm cùng với phụ tá Trần Lai Miên.
• Phòng 45 còn được gọi là Sở Bắc, có nhiệm vụ tổ chức hệ thống tình báo chiến lược của VNCH tại miền Bắc và quốc ngoại. Trưởng Phòng là Ðại Úy Ngô Thế Linh (Cố Ðại Tá), cùng một số các sĩ quan phụ tá như Nguyễn Bảo Thùy, Ðỗ Văn Tiên, Nguyễn Nghệ trực tiếp trông coi và điều hành. Sau này, Phòng 45 hay Sở Bắc được cải tổ lại thành Sở Công Tác, trực thuộc Nha Kỹ Thuật/BTTM/QLVNCH vào đầu năm 1971.
• Phòng 55 còn được gọi là Sở Nam, có nhiệm vụ đặt cán bộ nồng cốt tại miền Nam Việt Nam để xây dựng và thành lập các thành phần kháng chiến nằm vùng, đề phòng trường hợp Cộng Sản Bắc Việt tràn xuống miền Nam. Trưởng Phòng 55 là Nguyễn Qúy Huỳnh, và sau đó là Trần Văn Minh. Sau này, Phòng 55 hay Sở Nam được cải tổ lại thành Sở Liên Lạc, trực thuộc Nha Kỹ Thuật/BTTM/QLVNCH vào năm 1964.
• Phòng 65 chuyên lo về An Ninh Quân Ðội, kiểm soát những thành phần nội công và gián điệp Cộng Sản. Lê Ðình Ngân, Ðàm Thế Công và Nguyễn Qúy Hùng là những người đầu tiên trực tiếp điều hành Phòng 65.
• Phòng 75 có nhiệm vụ trông coi, thu thập và lưu giữ hồ sơ cùng những tài liệu mật có liên quan đến các hoạt động của Sở Liên Lạc/PTT.
• Phòng 78 có trách nhiệm về tài chánh và hành chánh, điều hành các ngân khoản trợ cấp cho các hoạt động của Bộ Chỉ Huy (BCH) Sở cũng như các cuộc hành quân của Toán.
• Phòng 95 là Phòng Truyền Tin, chỉ huy Ðại Ðội Truyền Tin 660, có trách nhiệm tổ chức và huấn luyện chuyên viên truyền tin cho các Toán, phân phối máy móc và giữ liên lạc truyền tin giữa BCH Sở và các Toán hoạt động tại Bắc Việt, quốc nội cũng như quốc ngoại. Trưởng Phòng 95 là cựu Ðại Tá Mai Viết Triết.
Từ năm 1957 đến năm 1959, Sở Liên Lạc/PTT bắt đầu khởi sự việc huấn luyện về chiến tranh ngoại lệ cho các cán bộ cấp chỉ huy và các đơn vị trực thuộc. Năm 1959, Trung Tá Lê Quang Tung, Thiếu Tá Trần Khắc Kính và Ðại Úy Trần Văn Hổ là 3 người Việt Nam đầu tiên tham dự khóa Chiến Tranh Ngoại Lệ trên đảo Saipan, một hòn đảo nhỏ do Hoa Kỳ kiểm soát tại Thái Bình Dương. Sau đó, Thiếu Tá Trần Khắc Kính và Thiếu Tá Cố Vấn Hoa Kỳ Russel Flyn Miller hướng dẫn 12 sĩ quan của Sở Liên Lạc/PTT qua Saipan học khóa Chiến Tranh Ngoại Lệ để điều hành chương trình Hành Quân Bắc Tiến của Sở. Mười hai sĩ quan của Sở Liên Lạc/PTT tham dự khóa này gồm có:
1. Ðại Úy Ngô Thế Linh
2. Ðại Úy Ðàm Minh Viên
3. Trung Úy Nguyễn Khắc Hy
4. Trung Úy Nông An Pang
5. Trung Úy Trần Bá Tuân
6. Trung Úy Văn Công Báu
7. Trung Úy Nguyễn Quang Trung
8. Trung Úy Nguyễn Bảo Thùy
9. Trung Úy Lê Ngọc Cẩn
10. Trung Úy Phạm Văn Minh
11. Thiếu Úy Nguyễn Nghệ
12. Thiếu Úy Lê Quang Triệu (bào đệ Cố Ðại Tá Lê Quang Tung).
Vào tháng Ba năm 1961, để chuẩn bị cho một chuyến công tác dài hạn xâm nhập miền Bắc, Phòng 45 gởi một điệp viên đơn độc (singleton) là Vũ Công Hồng, bí danh Hirondelle, vượt sông Bến Hải qua vùng Phi Quân Sự, hoạt động dọc theo vĩ tuyến 17 trong một công tác ngắn hạn của Phòng 45. Hai tuần sau, điệp viên Hirondelle trở lại miền Nam cùng với một số tin tức về đường đi nước bước và hệ thống an ninh của miền Bắc. Chuyến công tác này coi như thành công và mang lại nhiều phấn khởi cho Phòng 45.
Ðầu tháng Tư năm 1961, một điệp viên đơn độc khác của Phòng 45 (singleton) tên Phạm Chuyên, bí danh Ares hay Hạ Long, rời bãi biển Ðà Nẵng bằng thuyền Nautilus 1, lặng lẽ xâm nhập vào vùng biển Quảng Ninh rồi sau đó chèo xuồng đổ bộ vào một làng đánh cá gần Cẩm Phả, Hòn Gai – Bắc Việt, bắt đầu thi hành một công tác dài hạn. Khoảng 2 tuần sau, người điệp viên bí danh Ares gởi một bức điện văn đầu tiên về cho Phòng 45 và cơ quan CIA tại Sàigòn. Chuyến công tác xâm nhập coi như thành công! Sau đó, điệp viên Ares gởi thêm 22 bản báo cáo nữa cho đến tháng Sáu năm 1961 thì đột nhiên mất tích... Ngày 8 tháng Tám năm 1961, Phòng 45 lại nhận được một điện văn của điệp viên Ares sau gần 2 tháng mất liên lạc, cắt nghĩa về sự vắng mặt của mình và yêu cầu xin tiếp tế... Từ đó, thỉnh thoảng điệp viên Ares vẫn liên lạc với Trung Ương tại Sàigòn, báo cáo những tin tức quan trọng về nhà máy điện tại Uông Bí, hệ thống cầu cống, xe lửa, xa lộ và hải cảng Hải Phòng, v.v... cho đến năm 1968 thì mất liên lạc hẳn.
Cũng vào tháng Tư năm 1961, Sở Liên Lạc/PTT được đổi tên là Sở Khai Thác Ðịa Hình, trực thuộc Phủ Tổng Thống. Tuy nhiên, Sở Khai Thác Ðịa Hình/PTT vẫn duy trì các cơ cấu tham mưu của Sở Liên Lạc/PTT để tiếp tục hoạt động. Bộ Chỉ Huy Sở Khai Thác Ðịa Hình/PTT dùng danh hiệu đặc biệt “KHIÊM QUANG”. Mỗi chữ của danh hiệu này là tên của một Phòng. Mỗi Phòng được giao phó một nhiệm vụ tham mưu hay một công tác đặc biệt. Theo nguyên tắc này, Phòng 45 hay Sở Bắc được đặt tên là Phòng E và do đó thường được gọi là Phòng E45. Cũng vào thời điểm này, Liên Ðoàn Quan Sát Số 1 đổi tên thành Liên Ðoàn 77 và được thuyên chuyển từ Quân Trường Ðồng Ðế – Nha Trang về đóng tại Trại Hùng Vương, phía sau trường đua Phú Thọ – Sàigòn.
Một trong những người Biệt Kích đầu tiên của Phòng E45 xâm nhập miền Bắc từ trên không là Trung Sĩ (cựu Thượns Sĩ Nhất) Hà Văn Chấp, nguyên Trưởng Toán Castor, gồm 4 Biệt Kích Sở Bắc, đã anh hùng nhẩy dù trong đêm ngày 2 tháng Sáu năm 1961 xuống Ðồi 885, cách Làng Nghĩa Lộ thuộc Tỉnh Tuần Giao, Lai Châu – Bắc Việt khoảng 1 cây số. Toán Biệt Kích Castor bị “Lực Lượng Công An Vũ Trang” của miền Bắc bắt khoảng một tuần sau đó và bị ép buộc gởi công điện về Trung Ương xin tiếp tế. Mặc dầu Thiếu Tá Trần Khắc Kính nghi ngờ lời lẽ trong bản công điện gởi về Phòng E45 không phải của Trung Sĩ Hà Văn Chấp, Trung Tá Lê Quang Tung vẫn quyết định gởi tiếp tế cho Toán Castor vì trong bản công điện có mật mã chứa đựng dấu hiệu an toàn (signal de sécurité)!
Sau chuyến công tác tiếp tế cho Toán Castor bằng phi cơ C-47 của Phòng E45 do Trung Úy KQVN Phan Thanh Vân lái bị bắn rơi tại Tô Hiệu, Bắc Việt vào đêm ngày 3 tháng Bẩy năm 1961, Thiếu Tá Trần Khắc Kính xin thuyên chuyển khỏi Sở Khai Thác Ðịa Hình/PTT, lên Kontum dồn nỗ lực chỉ huy 15 Toán Biệt Kích Lôi Vũ và 4 Ðại Ðội Biệt Kích Dù, đã được Sở Liên Lạc/PTT thành lập vào cuối mùa Hè năm 1961, nhằm ngăn chận sự xâm nhập của Cộng Sản Bắc Việt từ Laos qua, và đồng thời cũng để tổ chức hành quân quấy rối trên lãnh thổ Bắc Việt. Dưới sự chỉ huy của Thiếu Tá Kính, các Toán Biệt Kích Lôi Vũ bắt đầu bí mật nhẩy xuống lãnh thổ Laos vào tháng Tám năm 1961 để thám sát và báo cáo những địa điểm tập trung và đường giây xâm nhập của Cộng Sản Bắc Việt từ Laos vào miền Nam Việt Nam. Vào khoảng tháng Ba năm 1963, Thiếu Tá Kính được thuyên chuyển về Vùng 4 lo về Biên-Phòng.
Người “Biệt Kích Gián Ðiệp” thứ sáu của Phòng E45 xâm nhập miền Bắc bằng đường biển là Ðặng Chí Bình, bí danh Athena (một người rất nổi tiếng trong giới người Việt hải ngoại của chúng ta sau này qua bộ sách hồi ký Thép Ðen), đã dùng thuyền xâm nhập vào bãi biển Hà Tĩnh, Bắc Việt vào cuối tháng Năm năm 1962.
Như đã trình bầy ở trên, Phòng E45 hay Sở Bắc, đầu tiên là một cơ cấu của Sở Liên Lạc/PTT, được thành lập vào cuối năm 1958, có nhiệm vụ tổ chức hệ thống tình báo chiến lược của VNCH tại miền Bắc và quốc ngoại. Danh xưng “Biệt Kích Sở Bắc” có lẽ đã bắt đầu từ đây. Phòng E45 được đặt dưới quyền chỉ huy và huấn luyện trực tiếp của Ðại Úy Ngô Thế Linh (Cố Ðại Tá). Trong khoảng thời gian từ năm 1961 cho đến năm 1963, ngoài những cơ cấu về không vận, Phòng E45 hay Sở Bắc còn có 2 Chi Cục Atlantic và Pacific, có nhiệm vụ tuyển mộ, huấn luyện và tổ chức các chuyến công tác xâm nhập miền Bắc bằng bộ vận và thủy vận. Cố Trung Tá Trần Bá Tuân là Chi Cục Trưởng Chi Cục Atlantic, chuyên đặc trách về bộ vận. Ðại Úy Hà Ngọc Oánh (cựu Trung Tá) làm Chi Cục Trưởng Chi Cục Pacific, chuyên đặc trách về hải vận.
Tháng Ba năm 1963, Sở Khai Thác Ðịa Hình được cải tổ thành Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Ðặc Biệt cùng với 2 đơn vị nồng cốt là Liên Ðoàn 77 và Liên Ðoàn 31, hoạt động dưới quyền chỉ huy của Cố Ðại Tá Lê Quang Tung. Sau cuộc đảo chánh ngày mồng 1 tháng 11 năm 1963, Thổng Thống Ngô Ðình Diệm, Ông Ngô Ðình Nhu, Bác Sỹ Trần Kim Tuyến, Trung Tá Lê Quang Tung và bào đệ là Thiếu Tá Lê Quang Triệu bị quân Cách Mạng sát hại. Sau đó, Sở Khai Thác Ðịa Hình/PTT tách rời khỏi Lực Lượng Ðặc Biệt vào khoảng đầu năm 1964 và được đổi tên thành Sở Khai Thác (Strategic Exploitation Service), đặt dưới quyền chỉ huy của Cố Ðại Tá Trần Văn Hổ, chuyên đặc trách những công tác tình báo chiến lược tại phía Bắc vĩ tuyến 17. Trong thời điểm này, Phòng E45 tuy vẫn trực thuộc Sở Khai Thác nhưng thường được gọi là Sở Bắc. Sau một thời gian ngắn, Sở Khai Thác được cải danh thành Sở Kỹ Thuật và sau đó được nâng lên thành Nha Kỹ Thuật.
Nha Kỹ Thuật (Strategic Technical Directorate) được chính thức thành lập vào khoảng đầu tháng 4 năm 1964 và trực thuộc Văn Phòng của cựu Ðại Tướng Cao Văn Viên, nguyên Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH. Người dân miền Nam Việt Nam bắt đầu biết đến danh xưng “Biệt Kích Lôi Hổ” trong khoảng thời gian này trở về sau. Nha Kỹ Thuật chính thức hoạt động từ tháng 4 năm 1964 cho đến ngày cuối cùng của cuộc chiến (30/4/1975) dưới sự chỉ huy của 2 vị Giám Ðốc: Cố Ðại Tá Trần Văn Hổ (1964 – 1968) và cựu Ðại Tá Ðoàn Văn Nu (1968 – 1975). Cố Ðại Tá Ngô Thế Linh là Phó Giám Ðốc Nha Kỹ Thuật (dd/mm/yyyy – ???). Phụ Tá Ðiều Hành Nha Kỹ Thuật là cựu Ðại Tá Nguyễn Lễ (Trần Xuân Ðức). Nha Kỹ Thuật còn được Cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đặt cho một tên chính thức khác là Bộ Tư Lệnh Chiến Tranh Ngoại Lệ trong lần tái tổ chức lại bản cấp số và các cơ sở trực thuộc vào đầu năm 1971, nhân ngày thành lập Sở Công Tác/NKT.
Mặc dù Nha Kỹ Thuật được chính thức thành lập vào năm 1964, nhưng thực ra hoạt động của Biệt Kích VNCH trên lãnh thổ Bắc Việt đã bắt đầu từ đầu năm 1961, qua những công tác tình báo chiến lược tối mật của Phòng E45 thuộc Sở Liên Lạc/PTT và Sở Khai Thác Ðịa Hình/PTT. Nói một cách rất tóm tắt qua sơ đồ hệ thống tổ chức, Nha Kỹ Thuật có 4 đơn vị tác chiến chính và 1 Trung Tâm Huấn Luyện cùng với Bộ Chỉ Huy Nha Kỹ Thuật mà trong đó, Sở Tâm Lý Chiến tuy là một cơ cấu tham mưu nhưng được giao phó nhiều công tác tâm lý chiến đặc biệt.
1) Sở Liên Lạc/NKT – Liaison Service – Ðơn vị chính của Biệt Kích Lôi Hổ, được cải tổ từ cơ cấu của Phòng 55 hay Sở Nam thuộc Sở Liên Lạc/PTT, và được sát nhập vào NKT vào năm 1964, gồm có Bộ Chỉ Huy Sở Liên Lạc và 3 Chiến Ðoàn hành quân chính là Chiến Ðoàn 1, Chiến Ðoàn 2 và Chiến Ðoàn 3 Xung Kích, cùng với những đơn vị đối nhiệm của Hoa Kỳ thuộc MACV-SOG (Military Command Assistance of Vietnam – Special Operations Group) là CCN (Command Control North), CCC (Command Control Center), và CCS (Command Control South), đảm trách các chuyến công tác hành quân viễn thám và xâm nhập ngoại biên trên lãnh thổ Laos và Cambodge, nhằm mục đích ghi nhận dấu vết hoạt động của các đơn vị Cộng Sản Bắc Việt, phá hoại các mục tiêu trọng yếu cùng chỉ điểm những mục tiêu quân sự của địch cho Không Quân Việt Nam và Hoa Kỳ oanh kích. Chỉ Huy Trưởng đầu tiên của Sở Liên Lạc là Cố Ðại Tá Hồ Tiêu, và vị Chỉ Huy Trưởng cuối cùng của Sở Liên Lạc là Cố Ðại Tá Nguyễn Minh Tiến.
2) Sở Phòng Vệ Duyên Hải – Coastal Security Service – Ðược chính thức thành lập vào ngày 1 tháng Tư năm 1964, gồm có Bộ Chỉ Huy Sở Phòng Vệ Duyên Hải (được thành lập từ số nhân viên của 2 Chi Cục Atlantic và Pacific), Lực Lượng Biệt Kích Người Nhái hay Biệt Hải, và Lực Lượng Hải Tuần của Hải Quân VNCH. Sở Phòng Vệ Duyên Hải đặc trách mọi công tác hải vận của Nha Kỹ Thuật trên vùng biển Bắc vĩ tuyến 17, do các toán Biệt Hải như Cumulus, Cancer, Vega, Mercury và Lực Lượng Hải Tuần thực hiện. Sau này, Sở Phòng Vệ Duyên Hải còn đảm trách thêm những chuyến công tác đặc biệt để đột kích các mật khu của Việt Cộng tại miền Nam Việt Nam, và giải cứu các phi công cùng phi hành đoàn Việt Nam và Hoa Kỳ lâm nạn. Chỉ Huy Trưởng đầu tiên của Sở Phòng Vệ Duyên Hải là Cố Ðại Tá Ngô Thế Linh, và vị Chỉ Huy Trưởng cuối cùng của Sở Phòng Vệ Duyên Hải là Cố Hải Quân Ðại Tá Nguyễn Viết Tân.
3) Sở Không Yểm – Air Support Service – Ðược thành lập vào năm 1964 để thay thế cho các toán phi hành đoàn người Ðài Loan do cơ quan Combined Studies của Hoa Kỳ cung cấp và điều động từ trước năm 1964, cùng với Phi Ðoàn Thần Phong 83 và các Phi Ðoàn Vận Tải C-47 “Cò Trắng” thả Biệt Kích của KQVN. Sở Không Yểm phối hợp và làm việc trực tiếp với Bộ Tư Lệnh Không Quân Việt Nam và Hoa Kỳ, đảm trách mọi nhu cầu hành quân không vận của Nha Kỹ Thuật. Sở Không Yểm gồm có Phi Ðoàn Trực Thăng KingBee 219, sau đó được thay thế bởi các Phi Ðoàn Trực Thăng 233, 235, các Phi Ðoàn Vận Tải C.123 và C.130, Phi Ðoàn bán phản lực OV2 và OV10, cũng như các Phi Ðoàn Quan Sát L.19 như Phi Ðoàn 118... Chỉ Huy Trưởng đầu tiên của Sở Không Yểm là Ðại Tá Không Quân Dư Quốc Lương, và vị Chỉ Huy Trưởng cuối cùng của Sở Không Yểm là Ðại Tá Không Quân Khổng Văn Phước.
4) Sở Công Tác – Special Mission Service – Ðơn vị sau cùng của Nha Kỹ Thuật, được chính thức thành lập vào ngày 1 tháng Một năm 1971 – Sở Công Tác là đơn vị chính của Biệt Kích Hắc Long, được cải tổ từ Sở Bắc thuộc Sở Khai Thác Ðịa Hình/PTT, bao gồm Bộ Chỉ Huy Sở Công Tác, Ðoàn Công Tác 11 và 68 nguyên thủy của Sở Bắc. Ngoài ra còn có thêm các Ðoàn Công Tác 71, 72 và 75, được thành lập vào khoảng cuối tháng 12 năm 1970 với các Sĩ Quan và Hạ Sĩ Quan xuất thân từ Lực Lượng Ðặc Biệt, Trường Võ Bị Quốc Gia Ðà Lạt, Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Ðức và Trường Hạ Sĩ Quan Ðồng Ðế Nha Trang. Nhiệm vụ chính của Sở Công Tác là thay thế Sở Bắc, đảm nhận các công tác xâm nhập, tuyển mộ, huấn luyện, trang bị và phát triển các căn cứ du kích của VNCH trên lãnh thổ Bắc Việt, thu thập các tin tức tình báo chiến thuật và chiến lược từ miền Bắc, tấn công và phá hoại các hạ tầng cơ sở cùng những nơi đồn trú và các cơ sở quân sự của Cộng Sản Bắc Việt. Vùng hoạt động của Sở Công Tác là trên toàn lãnh thổ Bắc Việt, từ Bắc vĩ tuyến 17 trở ra cho đến biên giới Trung Hoa. Chỉ Huy Trưởng đầu tiên của Sở Công Tác là Cố Ðại Tá Ngô Thế Linh, và vị Chỉ Huy Trưởng cuối cùng của Sở Công Tác là cựu Ðại Tá Ngô Xuân Nghị.
5) Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Kích Long Thành – Thủ Ðức – Căn cứ này nguyên thủy của Lực Lượng Ðặc Biệt, được chính thức bàn giao cho Nha Kỹ Thuật vào đầu năm 1964, có trách nhiệm soạn thảo và tổ chức các chương trình huấn luyện cho các nhân viên Nha Kỹ Thuật thi hành công tác, bao gồm các khóa về Chiến Tranh Ngoại Lệ, Nhẩy Dù, Vũ Khí, Phí Hoại, Truyền Tin, Mưu Sinh Thoát Hiểm và Hành Quân Viễn Thám, v.v. Trung Tâm Huấn Luyện Long Thành còn có một Khu Cấm, nơi xuất phát một số các chuyến công tác đặc biệt của Biệt Kích VNCH từ miền Nam Việt Nam. Chỉ Huy Trưởng đầu tiên của Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Kích Long Thành là Trung Úy Nguyễn Văn Vinh (Cố Trung Tá) , và vị Chỉ Huy Trưởng cuối cùng của Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Kích Long Thành là Cố Ðại Tá Ngô Thế Linh.
6) Sở Tâm Lý Chiến – Spychological Operations hay SpyOps – Một cơ cấu tham mưu thuộc BCH Nha Kỹ Thuật, được giao phó trách nhiệm tổ chức và soạn thảo những kế hoạch tâm lý chiến đặc biệt cùng điều hành các hệ thống phát thanh mật như: Ðài Tiếng Nói Tự Do, Ðài Gươm Thiêng Ái Quốc và Ðài Mẹ Việt Nam. Sở Tâm Lý Chiến còn bao gồm nhiều công tác đặc biệt khác, trực tiếp yểm trợ cho Mặt Trận Gươm Thiêng Ái Quốc để đối đầu với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam của Bắc Việt, nhằm mục đích gây hoang mang và lo sợ cho nhà cầm quyền Cộng Sản lẫn dân chúng miền Bắc về sự hiện diện thực sự của các toán “Biệt Kích Gián Ðiệp” VNCH trên toàn lãnh thổ Bắc Việt. Chỉ Huy Trưởng đầu tiên của Sở Tâm Lý Chiến là cựu Trung Tá Phạm Thế Phiệt, và vị Chỉ Huy Trưởng cuối cùng của Sở Tâm Lý Chiến là Cố Trung Tá Ðặng Xuân Thoại, người đã anh hùng tuẫn tiết bằng súng lục tại nhà thương St-Paul, Sàigòn vào sáng ngày 30 tháng Tư năm 1975, trước khi Cộng Sản Bắc Việt cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam.
Ngoài ra, Nha Kỹ Thuật còn có nhiều Phòng-Sở khác nhau như đại đa số các cơ cấu tổ chức hành quân khác của QLVNCH như Phòng 1, Phòng 2, Phòng 3, Phòng 4, Phòng Truyền Tin và Mật Mã, Sở Hành Quân Tình Báo, Sở Hành Chánh & Tiếp Vận, v.v. Quyền hạn và trách nhiệm của vị Giám Ðốc Nha Kỹ Thuật/BTTM/QLVNCH ngang hàng với Tư Lệnh của một Sư Ðoàn Bộ Binh, cấp Thiếu Tướng.
Trong giai đoạn đầu của Nha Kỹ Thuật/BTTM, vào thời kỳ Phòng E45 hay Sở Bắc còn trực thuộc Sở Khai Thác Ðịa Hình/PTT, từ năm 1961 cho đến đầu năm 1964, các công tác đặc biệt có thể nói là thuần túy tình báo do cơ quan Tình Báo Trung Ương Hoa Kỳ (CIA) phối hợp và yểm trợ. Trong thời gian này, để bảo mật cho tổ chức và hoạt động, tất cả quân nhân phục vụ tại Phòng E45 đều phải mặc thường phục.
Giai đoạn thứ hai bắt đầu vào thời kỳ Nha Kỹ Thuật/BTTM được MACV-SOG cố vấn và yểm trợ từ năm 1964 đến cuối năm 1968. Trong thời kỳ này, các công tác tại miền Bắc được yểm trợ mạnh mẽ, chú trọng nhiều về hoạt động có tính cách quân sự, đặt nặng về nhiệm vụ thám sát và báo cáo mục tiêu hơn là thiết lập một hệ thống tình báo nằm vùng. Do đó, các quân nhân phục vụ tại Nha Kỹ Thuật/BTTM bắt đầu mặc lại quân phục với đầy đủ quân hàm.
Giai đoạn thứ ba của Nha Kỹ Thuật/BTTM là thời kỳ từ năm 1968 cho đến cuối tháng Tư năm 1975. Trong thời kỳ này, mọi công tác tại miền Bắc đều đã chấm dứt. Tuy nhiên, sự hoạt động đặc biệt của Nha Kỹ Thuật tại các Quân Khu và những cuộc hành quân vượt biển vẫn được gia tăng mạnh mẽ.
Là một thành phần của Nha Kỹ Thuật, Sở Phòng Vệ Duyên Hải đã được 2 lần tuyên dương công trạng trước Quân Ðội, được ân thưởng 2 Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu, và đơn vị được mang dây Biểu Chương mầu Anh Dũng Bội Tinh. Ngoài ra, năm 1967, Sở Phòng Vệ Duyên Hải/NKT đã được Bộ Tư Lệnh Hải Quân Hoa Kỳ ân thưởng huy chương “Meriterious Service”. Các chuyến công tác đặc biệt yểm trợ cho kế hoạch tâm lý chiến và phong trào “Gương Thiêng Ái Quốc” được xem là thành công nhất trong chương trình hải vận của Sở Phòng Vệ Duyên Hải/NKT, cùng với sự trợ giúp của cơ quan NAD (Naval Advisory Detachment) thuộc Hải Quân Hoa Kỳ. Khi Chính Phủ Hoa Kỳ ngưng oanh tạc Bắc Việt vào ngày 1 tháng 11 năm 1968 thì mọi hoạt động của Sở Phòng Vệ Duyên Hải/NKT tại Bắc vĩ tuyến 17 đều chấm dứt. Từ đó, Sở Phòng Vệ Duyên Hải/NKT được tăng cường phối hợp hành quân với các đơn vị bạn tại Quân Ðoàn I và Quân Ðoàn IV cho đến ngày 30 tháng Tư năm 1975.
Vì Chính Phủ Hoa Kỳ thay đổi chính sách và chiến lược tại Việt Nam, và vì tình hình chiến tranh thay đổi qúa mau lẹ cho nên kể từ tháng Tư năm 1972, Bộ Chỉ Huy Sở Công Tác/NKT và các Ðoàn Công Tác 11, 71 và 72 được tăng phái cho Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn I, đóng tại khách sạn Thuận Hóa, Huế. Sau đó, di chuyển về Phú Bài rồi Cây Số 17. Vào lúc này, Sở Công Tác/NKT có nhiệm vụ đóng chốt để khám phá các đường giây xâm nhập của Cộng Sản Bắc Việt vào thành phố Huế từ phía Nam. Vùng hành quân của Sở Công Tác/NKT về phía Nam là vùng núi Bạch Mã, và sau đó ở Cây Số 17 là về phía Tây và phía Bắc của thành phố Huế, với nhiệm vụ khám phá các đường giây xâm nhập của CSBV từ Laos qua, và từ Bắc vĩ tuyến vào qua đường Số 9 và vùng Phi Quân Sự. Tại Quân Khu II, Ðoàn Công Tác 75 của Sở Công Tác/NKT cùng với Chiến Ðoàn 2 Xung Kích của Sở Liên Lạc/NKT được tăng phái cho Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn II. Tại Quân Khu III, Ðoàn Công Tác 68 của Sở Công Tác/NKT và Chiến Ðoàn 1 Xung Kích của Sở Liên Lạc/NKT được tăng phái cho Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn III. Sau cuộc rút quân từ Ðà Nẵng và Pleiku về Sàigòn, Sở Công Tác/NKT và các đơn vị trực thuộc vẫn tăng phái cho Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn III, hành quân ở vùng Biên Hòa, Ðồng Nai cho đến chiều ngày 29 Tháng Tư năm 1975 mới cùng các đoàn tầu khác ra khơi rời Việt Nam.
“Sự hy sinh của các chiến sĩ thuộc Sở Liên Lạc/PTT, Phòng E45, Sở Khai Thác Ðịa Hình/PTT, Lực Lượng Ðặc Biệt, Nha Kỹ Thuật/BTTM không thể nào diễn tả được bằng lời nói hoặc bằng ngòi viết. Họ là những Anh Hùng Vô Danh mà quốc gia Việt Nam đã không hề biết đến, vì họ đã hoạt động trong bóng tối, ngoài sự hiểu biết của mọi người. Họ đã âm thầm bảo vệ đất nước mà chính đất nước cũng chưa có một lời nào nhắc nhở hay vinh danh họ. Bây giờ tuy đã trễ đối với đất nước Việt Nam, nhưng chúng ta hiện còn sống sót hôm nay không thể không nhắc nhở và vinh danh họ, ít nhất là trong tâm hồn và ý nghĩ của chúng ta.” (sic) – Cựu Trung Tá Lữ Triệu Khanh, nguyên Chánh Văn Phòng Giám Ðốc Nha Kỹ Thuật/BTTM/QLVNCH – Tháng Ba năm 2004 – Ðặc San NKT 2004.
Sách và Tài Liệu Tham Khảo:
1) Những Hoạt Ðộng Ðặc Biệt Của Nha Kỹ Thuật/TTM/QLVNCH (Tháng Ba năm 2004)
Cựu Trung Tá Lữ Triệu Khanh – Nguyên CVP Giám Ðốc NKT/TTM
(Ðặc San NKT 2004)
2) Vài Nét Hoạt Ðộng Của Biệt Kích Dù Tại Bắc Việt
Cố Trung Tá Nguyễn Văn Vinh
Nguyên Chỉ Huy Trưởng Ðoàn Công Tác 68/Phòng E45/Sở Bắc
Nguyên Chánh Sự Vụ Sở Hành Chánh & Tiếp Vận – Bộ Chỉ Huy/NKT/BTTM
(Ðặc San NKT 2004)
3) Sở Công Tác / Nha Kỹ Thuật
Cựu Thiếu Tá Trần Kim Khánh – Nguyên Trưởng Phòng 3 – Sở Công Tác/NKT
(Ðặc San NKT 2004)
4) Sự Hình Thành Và Hoạt Ðộng Của Sở Phòng Vệ Duyên Hải / Nha Kỹ Thuật
Trần Thanh Hoài – Sở Phòng Vệ Duyên Hải/NKT
(Ðặc San NKT 2004)
5) Lực Lượng Ðặc Biệt Giữa Những Tổ Chức Chiến Tranh Không Quy Ước - QLVNCH
Cựu Trung Tá Phan Bá Kỳ – Sở Công Tác/NKT/BTTM
(Văn Bút – 2004)
6) Trận Chiến Bí Mật – NKT/TTM
VÐH (1999 – 2000)
7) SOG – The Secret Wars Of America’s Commandos In Vietnam
John L. Plaster – (Onyx – 1998)
8) How American Lost The Secret War In Vietnam
Kenneth Conboy & Dale Andrade – (United Press – 2000)
9) The Secret War Against Hanoi
Richard H. Shultz, Jr. – (HarperCollins Publishers – 2000)
Nha KỸ- THUẬT
o Bộ Tổng Tham Mưu
o QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HÒA
Trung Tá Lữ Triệu Khanh
Mục đính của người viết bài này không ngoài hoài bão cung cấp cho các cựu quân nhân và cựu nhân viên dân chính đã từng phục vụ trong các đơn vị trực thuộc Nha Kỹ Thuật / BTTM / QLVNCH hiện định cư tại Hoa Kỳ cũng như tại các quốc gia khác trên Thế giới Tự Do, một sự hiểu biết tổng quát về sự tổ chức cũng như những hoạt động đặc biệt của đơn vị này.
Vì tính cách đặc biệt về tổ chức và nhiệm vụ của Kỹ Thuật / BTTM, ngay chính những quân nhân phục vụ tại một đơn vị của Nha Kỹ Thuật / BTTM cũng không hiểu rõ về đơn vị này. Do đó, nếu có sự hiểu lầm hay một sự hiểu biết thiếu chính xác của một số đơn vị bạn cũng không phải là một điều ngạc nhiên.
Danh hiệu Nha Kỹ Thuật / BTTM chỉ là một danh hiệu " vỏ bọc " để bảo vệ những hoạt động thực sự đối với Cộng Sản cũng như đối với các đơn vị bạn khác. Nha Kỹ Thuật / BTTM chính thức là Bộ Tư Lệnh Chiến Tranh Ngoại Lệ, ngang hàng với cấp Sư đoàn Tổng Trừ bị do một cấp Thiếu Tướng làm Tư lệnh.
Nha Kỹ thuật / BTTM trải qua rất nhiều lần cải danh và thay đổi về tổ chức và nhiệm vụ, tùy theo sự biến chuyển về tình hình chính trị quốc nội cũng như tình hình quân sự trên chiến trường.
Trước khi đi sâu vào vấn đề này, kẻ viết bài này xin mạn phép trình bày sơ lược về cá nhân và sự liên hệ đối với Nha Kỹ Thuật / BTTM kể từ năm 1961 cho đến ngày chính Thức giải tán đơn vị này vào ngày 28 tháng 4 năm 1975 do khẩu lệnh của Ðại tướng Tổng Tham Mưu Trưởng / QLVNCH, trước khi Ðại tướng từ chức vụ Tham Mưu trưởng.
Vào cuối năm 1960, trong khi phục vụ tại một đơn vị thuộc Sư đoàn 1 Bộ Binh đồn trú tại Quảng Trị, tôi đã được lệnh cấp tốc trình diện Phủ Tổng Thống. Thật là một ngạc nhiên to lớn đối với một cấp úy nhỏ như tôi. Sau khi được đơn vị trưởng cấp sự vụi lệnh, tôi được một vị đại diện Phủ Tổng Thống từ Huế ra đón và đưa thẳng về Ðà nẵng. Tại đây, tôi lại được một đơn vị khác tiếp xúc, bắt tôi thay thường phục và đưa ra phi trường đáp phi cơ Air Việt Nam về Saigon. Tại Phi trường Tân sơn nhất, tôi lại được một đơn vị khác đón và đưa về một căn nhà tại khu Tân Ðịnh, nằm trong một ngõ hẹp. Dù tôi có ý gợi chuyện trong lúc đi đường, các vị này đều có vẻ huyền bí và rất ít nói chuyện. Tại căn nhà này, tôi lại càng ngạc nhiên hơn vì lần đầu tiên tôi được gặp và giới thiệu với một số nhân viên Hoa Kỳ. Tôi không biết các vị này cả Việt lẫn Mỹ, thuộc đơn vị hay cơ quan nào. Tôi cũng chưa biết vị chỉ huy tôi là ai, quân nhân hay dân sự. Một nhân viên Hoa kỳ có vẻ ngạc nhiên về khả năng Anh văn của tôi. Tôi cho ông ta biết là tôi đã tốt nghiệp khóa 6 tháng thông dịch viên Anh ngữ tại Hội Việt Mỹ vào đầu năm 1958.
Tôi muồn nhắc đền sự việc này vì nhờ sự hiểu biết về anh văn mà tôi được giữ những chức vụ có liên quan đến việc tiếp xúc với cơ quan Tình báo Hoa Kỳ sau này. Vì nhân viên Hoa Kỳ này cho tôi biết là ngày hôm sau tôi sẽ được tham dự khóa " Tình báo đặc biệt " do các nhân viên tình báo Hoa kỳ đảm trách hướng dẫn. Người Mỹ gọi là khóa " Clandestine Operation " được huấn luyện cho các nhân viên điệp báo hoạt động tại hậu tuyến địch. Nói tóm lại đây là khóa huấn luyện gián điệp. Tôi có hỏi sau khóa này tôi sẽ làm gì nhưng không ai xác định gì cả. Họ chỉ cho biết là sau khóa huấn luyện tôi sẽ trở thành một " Case Officer " hay là "Trưởng công tác". Tên tôi được biến thành Emile, cũng như các học viên khác Leon, Antoinne, Charles .v.v. . . Thật ra các tên tây phương này được đặt ra để giúp cho người Mỹ dễ nhớ trong khi huấn luyện cũng như khi hợp tác làm việc sau này. Ngoài các tên này, chúng tôi được gọi bằng những ngụy danh khác với mục đích bảo vệ lý lịch, đề phòng đối phương theo dõi trong thởi gian liên hệ với công tác tình báo. Ðây chỉ là một trong những nguyên tắc căn bản của ngành điệp báo.
Sau khóa học kéo dài 4 tuần lễ, tôi được các vị huấn luyện viên Hoa Kỳ khen thưởng về sự cố gắng và thông suốt các nguyên tắc của ngành tình báo. Sau đó, tôi được trình diện đầu tiên với vị chĩ huy trực tiếp của tôi là vị Trưởng phòng 45 của Sở Khai thác Ðịa Hình trực thuộc Phủ Tổng Thống.
Tôi rất mừng rỡ vỉ vị chỉ huy trực tiếp của tôi là Ðại Úy BÌNH tức là Ðại Úy Ngô thế Linh mà tôi đã làm dưới quyền tại Phòng III / Quân đoàn I tại Ðà Nẵng vào đầu năm 1958.
Sự nghiệp quân sự của tôi, giai đoạn có ý nghĩa nhất là bắt đầu khóa học tình báo đặc biệt này cho đến ngày cuối cùng của QLVNCH vào cuối tháng 4 năm 1975. Với hơn 14 năm được phục vụ tại một đơn vị đặc biệt, giữ những chức vụ tuy nhỏ nhoi nhưng được gần gũi với các cấp chỉ huy cao cấp và được sự tin tưởng của các vị này, cũng như các vị cố vấn Hoa Kỳ cao cấp, tôi đã theo dõi và chứng kiến các hoạt động của Nha Kỹ Thuật / BTTM, sự cải danh của nó, từ vị trí của một Phòng sở nhỏ trở thành một đại đơn vị có tầm mức chiến lược quan trọng.
Sự bành trường và lớn mạnh của Nha Kỹ Thuật / BTTM đều tùy thuộc và ảnh hưởng bởi các biến chuyển của tình hình chiến sự quốc nội, tình hình chính trị trên thế giới, đường lối chỉ đạo của Hoa Kỳ đối với chiến cuộc tại Việt Nam và cuối cùng là khả năng hoạt động của các đơn vị thuộc Nha Kỹ Thuật / BTTM.
Những tài liệu trình bày sau đây đều dựa theo trí nhớ của tôi. Do đó, về thời gian và không gian có thể có một vài sự sai lầm nhỏ hoặc một chút thiếu sót. Tôi nghĩ rằng dù nếu có một vài sự thiếu sót, ý nghĩa và mục đích của bài này sẽ không sai lạc và các điểm chính yếu tôi muốn nêu ra vẫn được bảo đảm.
Sở Khai thác Ðịa hình trực thuộc Phủ Tổng Thống, lúc bấy giờ do Cố Ðại Tá Lê Quang Tung là Chỉ huy trưởng. Ðơn vị này được giao phó rất nhiều công tác tình báo quan trọng, về quốc nội cũng như quốc ngoại, hoạt động dưới sự chỉ đạo trực tiếp của ông Cố Vấn Ngô Ðình Nhu và Tổng Thống Ngô Ðình Diệm. Trong các cơ cấu tình báo, Phòng 45 hay Phòng E được đặc trách hoạt động thu thập tin tức tình báo tại miền Bắc vĩ tuyến 17, với các hệ thống điệp báo nằm vùng xâm nhập từ Miền NAM hoặc từ Ðệ Tam Quốc gia bạn. Tại nội bộ đơn vị, Sở Khai thác Ðịa Hình cũng được gọi là KHIÊM QUANG, mỗi chữ biểu hiệu cho một Phòng của đơn vị. Phòng E sau này còn được gọi là SB, viết tắt cho Sở Bắc. Kể từ năm 1960 trở đi, hoạt động điệp báo tại miền Bắc được đặc biệt chú trọng vì nhu cầu tin tức chiến lược nhằm ước tính khả năng của Cộng Sản, hầu ngăn chặn mưu đồ xâm lược của miền Bắc.
Ðể yểm trợ tài chính và kỹ thuật cho các công tác đặc biệt này, cơ quan Combined Studies thuộc Tòa Ðại sứ Hoa Kỳ tại Saigon được giao phó phối hợp và đảm trách. Công tác tình báo và các hoạt động đặc biệt nhằm đối tượng Cộng Sản đều do cơ quan Tình Báo Trung Ương Hoa Kỳ cố vấn và tài trợ vì vấn đề kỹ thuật phức tạp và phí tổn to lớn. Cơ quan Combined Studies cung cấp chuyên viên, tin tức tình báo căn bản, các tài liệu và vật dụng cần thiết, cũng như nhu cầu tài chính để hoàn thành công tác.
Vì bài này chỉ giới hạn về tổ chức và nhiệm vụ tổng quát của Nha Kỹ Thuật / BTTM và các tổ chức tiền thân, nên tôi sẽ không đề cập đến chi tiết các hoạt động, cách tổ chức các Toán công tác cũng như thành quả của các Toán này. Tôi mong rằng sẽ có cơ hội trình bày trong những bài kế tiếp.
Vào đầu năm 1963, Sở Khai thác Ðịa Hình được biến cải thành Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Ðặc Biệt , với hai đơn vị chiến đấu nòng cốt là Liên đoàn 77 và Liên đoàn 31. Ðại Tá Lê Quang Tung cũng là vị Tư lệnh đầu tiên của đơn vị này. Sở Bắc vẫn tiếp tục hoạt động và duy trì sự phối hợp với cơ quan Combined Studies của Tòa Ðại sứ Hoa Kỳ, trong khuôn khổ tổ chức của Bộ Tư Lệnh LLDB mới thành lập. Sau cuộc chính biến và Cách mạng 1963 và Ðại tá Lê quang Tung bị sát hại. Và LLÐB được chỉ huy bởi một số các vị Tướng lãnh và sau đó dời về Nha Trang. Cũng trong thời gian này, Sở Bắc cũng được cải danh là Sở Khai Thác / BTTM và tiếp tục duy trì công tác đặc biệt, tách rời khỏi Lực Lượng Ðặc Biệt. Vị Chĩ huy trưởng và Giám đốc đầu tiên của đơn vị này là Ðại Tá Trần văn Hổ. Ngoài việc đảm trách công tác văn phòng, liên lạc phối hợp với ban Cố Vấn Hoa Kỳ, tôi vẫn tiếp tục tổ chức các Toán với tư cách Sĩ quan Trưởng Công tác. Một thời gian sau, Ðại Tá Hổ chỉ định tôi làm Chánh Văn phòng. Song song với sự cải tổ về phía Việt Nam, Bộ Tư lệnh Lực Lượng Hoa Kỳ tại Việt Nam MACV thay thế cho cơ quan Cố vấn Hoa Kỳ MAAG, cũng được thành lập. MACV - SOG là viết tắt của MACV - Studies and Observations Group, nhưng chính danh là Special Operation Group, được chỉ định Cố vấn và yểm trợ cho các công tác đặc biệt.
Ngoài các Toán Tình báo dài hạn xâm nhập Miền Bắc bằng Không vận hay Hải Vận và công tác Biệt Hải tập kích đánh phá các mục tiêu thuộc miền Bắc duyên hải. Sở Khai thác lại được lệnh tổ chức các Toán thám sát ngắn hạn hoạt động tại vùng biên giới Lào Việt nằm phía Bắc vĩ tuyến 17 cho đến vĩ tuyền 20. Các Toán này được gọi là các Toán Strata, viết tắt tiếng Mỹ là Short Term Reconnaisance and Target Acquisition teams. Hai đoàn công tác chính yếu của công tác Không vận lúc bấy giờ là Ðoàn 68 đảm trách các công tác dài hạn vá các công tác đặc biệt khác Ðoàn 11 phụ trách các công tác ngắn hạn.
Cũng trong thời gian này, vì nhu cầu khẩn cấp của chiến trường, Sở Khai Thác được chỉ thị huấn luyện các Toán Thám Sát đặc biệt mệnh danh là Shinning Brass tại căn cứ huấn luyện Long Thành, sau này gọi là Trung tâm Huấn luyện Quyết Thắng. Sở Liên lạc / BTTM cũng được thành lập trong thời gian này để đảm trách các công tác ngoại biên Việt-Miên và Việt-Lào. Các Toán này mang danh Lôi Hổ có nhiệm vụ thám sát, phá hoại các mục tiêu trọng yếu của địch, cùng công tác chỉ điểm mục tiêu cho các phi vụ không kích hoặc đánh phá xử dụng các lực lượng khai thác (Exploitation Forces ). Vị chỉ huy trưởng đầu tiên là Ðại Tá Hồ Tiêu, trước phục vụ tại Sư đoàn Nhảy Dù. Sau đó Sở Liên lạc được tiếp tục chỉ huy bởi các vị chỉ huy trưởng thuộc Sư đoàn Nhảy Dù. Các cuộc hành quân thám sát biên giới phát triển mạnh mẽ vào các năm 1966 – 1972, đặc biệt dưới sự chỉ huy của Ðại Tá Liêu quang Nghĩa. Các vị chỉ trưởng sau này là Ðại tá Nguyễn văn Minh và Ðại Tá Nguyễn Minh Tiến.
Sở Liên lạc gồm có một Bộ Chỉ Huy đồn trú tại Saigon và 3 Chiến đoàn đồn trú tại Saigon và 3 Chiến đoàn đồn trú tại các Khu vực khác nhau, thích hợp với khu vực mục tiêu hoạt động:
o Chiến đoàn I đồn trú tại Ðà Nẵng
o Chiến đoàn II đồn trú tại Kontum
o Chiến đoàn II đồn trú tại Ban mê Thuột.
Song song với các chiến đoàn này, MACSOG cũng có những cơ sở hành quân riêng rẽ đồn trú chung cùng doanh trại với các chiến đoàn. Kế hoạch hành quân được phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ chỉ huy Hoa Kỳ và Việt Nam liên hệ. Mỗi Chiến đoàn có nhiều Liên toán và mỗi Liên toán gồm có nhiều Toán. Các Toán này được tổ chức huấn luyện và hành quân theo Kỹ thuật của Lực Lượng Ðặc biệt. Sự khác biệt là các Toán của Sở Liên lạc có nhiệm vụ hoạt động ngoài biên giới lãnh thổ và ngay trong lòng địch.
Khoảng năn 1965-1966, Sở Khai Thác / BTTM lại được đổi danh là Sở Kỹ thuật và sau đó không bao lâu, Sở này được nâng lên Nha Kỹ Thuật / BTTM, chỉ huy bởi một vị Giám đốc, cho phù hợp với tổ chức mới. Lúc bấy giờ Nha Kỹ thuật gồm có các đơn vị hoạt động trọng yếu như sau :
o Sở Liên Lạc
o Ðoàn 11 và Ðoàn 68 ( Sở Công tác được thành lập sau này )
o Sở Không Yểm
o Sở Phòng Vệ Duyên Hải
o Trung Tâm Huấn luyện Quyết Thắng
o Sở Tâm Lý Chiến ( tuy là một Sở của Bộ Chỉ huy nhưng Sở này có tầm hoạt động rộng lớn và quan trọng ).
Sở Công tác sau này được thành lập với hai Ðoàn Công tác 11 và 68. Sau khi Lực lượng Ðặc biệt giải tán, Nha Kỹ thuật được tăng cường sĩ quan cán bộ cũng như nhân viên Toán hành quân. Các Ðoàn kế tiếp được thành lập là Ðoàn 71, 72 và Ðoàn 75. Thời gian đầu tiên, Bộ Chỉ huy Sở đồn trú tại Nha Trang sau đó dời ra Ðà Nẳng. Các Ðoàn 11, 71 và 7 đồn trú tại Ðà Nẳng
Các đoàn 11, 71 và 72 đồn trú tại Ðà Nẳng, Ðoàn 75 tại Ban Mê Thuột. Ðoàn 68 vẫn tiếp tục duy trì tại Saigon, gần Bộ Chỉ huy Nha.
Ðoàn 68 được giao phó tổ chức và hướng dẫn các Toán Tình báo dài hạn tại Miền Bắc. Các Toán được xâm nhập bằng Trực thăng vận từ lãnh thổ Ðệ Tam Quốc Gia hoặc Nhảy Dù vào khu vực mục tiêu tại Miền Bắc. Một số Toán hoạt động tại vùng duyên hải Ðông Bắc được đặt kế hoạch xâm nhập bằng hải vận. Nhiệm vụ chính yếu của các Toán này là thiết lập căn cứ hoạt động, quan sát và thám sát các mục tiêu, báo cáo về Trung Ương để nhận chỉ thị hoạt động. Các khu vực mục tiêu trọng yếu nằm dọc theo biên giới Hoa Việt, khu vực Ðông Bắc Cao Bắc Lạng, khu vực Tây Bắc, sơn La, Lai Châu, khu vực Bắc vĩ tuyến Thanh Nghệ Tĩnh Bình. Một trong những nhiệm vụ quan trọng là quan sát và báo cáo mọi chuyển quân của Bắc Việt trên các trục giao thông qua biên giới và xuống miền Nam. Các hoạt động trên bắt đầu giảm sút kể từ năm 1968.
Các Toán thám sát ngắn hạn thuộc Ðoàn 11 lại được gia tăng và chú trọng hơn trong khi lực lượng chính quy Bắc Việt ồ ạt xâm nhập miền Nam qua các hành lang biên giới. Tuy vậy Ðoàn 68 vẫn tiếp tục đảm trách các công tác đặc biệt khác, nhằm đánh lừa địch qua việc sử dụng các Hồi chánh viên cũng như tù binh chính quy, phối hợp với sở Tâm lý chiến.
Kể từ 1972 trở về sau, địa bàn hoạt động của các Toán thuộc Nha Kỹ Thuật / BTTM được thu hẹp lại cho thích hợp với nhu cầu chiến trường. Do đó, các Ðoàn và Chiến đoàn công tác đều được tăng phái cho các Quân đoàn và thực hiện những cuộc hành quân thám sát nội biên sau hậu tuyến địch, nhằm mục đích cung cấp cho Quân đoàn những tin tức xác thực để khai thác.
Vị Chỉ huy trưởng đầu tiên của Sở Công Tác là Ðại Tá Ngô thế Linh, nguyên là Phó Giám đốc Nha Kỹ Thuật / BTTM. Các vị chỉ huy kế tiếp là Ðại Tá Nguyễn văn Hai và Ðại Tá Ngô xuân Nghị trước phục vụ tại Sư đoàn Nhảy Dù.
Ðể yểm trợ cho các Toán hành quân Không vận của Sở Liên lạc và sở Công Tác. Sở Không Yểm có nhiệm vụ liên lạc với Bộ Tư lệnh Không quân, đáp ứng nhu cầu hành quân của Nha Kỹ thuật. Các nhu cầu này gồm phương tiện trực thăng xâm nhập và triệt xuất, các phi vụ thả toán xử dụng phi cơ từ C.47 đến C.123 và C. 130 do phi hành đoàn KQVN thực hiện. Các phi vụ quan sát bằn L.19 hay L.20, các phi vụ bảo trợ thả toán Skyraiders hay F.5. Các đơn vị Không quân này không trực thuộc Nha Kỹ Thuật nhưng các phi vụ đặc biệt này đều được ưu tiên thực hiện theo nhu cầu. Ðặc biệt phi đoàn trực thăng 219 được thường xuyên tăng phái cho Nha Kỹ Thuật / BTTM. Ðơn vị này đồn trú tại Nha Trang, Những phi vụ tối ư đặc biệt và ngoài khả năng của KQVN đều do Không quân Hoa kỳ đảm trách, xuất phát từ các căn cứ trên lãnh thổ Ðệ Tam Quốc Gia.
Trước năm 1964, một số phi vụ thả toán vào lãnh thổ Bắc Việt được thực hiện với các phi hành đoàn ngoại quốc do cơ quan tình báo Hoa Kỳ đảm trách và hoạch định qua hãng Air America tại Saigon. Sĩ quan liên lạc Không quân và cũng là Chỉ huy trưởng Sở Không Yểm từ năm 1961 cho đến tháng Tư năm 1975 là Ðại Tá Dư Quốc Lương.
Nói về các hoạt động đặc biệt của Nha Kỹ Thuật mà không đề cập đến các công tác hải vận của đơn vị này là một thiếu sót đáng kể. Công tác Hải vận và Biệt Hải của Nha Kỹ Thuật / BTTM được giao phó cho Sở Phòng Vệ Duyên Hải. Tiền thân của Sở này là căn cứ " Pacific ", trong hệ thống tổ chức của Phòng 45 thuộc Sở Khai thác Ðịa Hình. Sở Phòng vệ Duyên Hải được chính thức hoạt động Khoảng cuối năm 1964 và đầu 1965. Trước đó phương tiện xâm nhập các nhân viên điệp báo và các Toán tại các vùng Duyên hải Bắc Việt đều xử dụng các thuyền máy đánh cá, sửa chữa lại theo kiểu thuyền miền Bắc. Các thuyền này được đưa về Ðà Nẳng để huấn luyện và thực tập về công tác xâm nhập cùng với nhân viên hay Toán hoạt động.
Sau này vì khả năng có giới hạn của các thuyền này và vì nhu cầu tốc độ và khả năng chiến đấu để bảo vệ, cơ quan Tình báo Hoa kỳ đã cung cấp cho Nha Kỹ thuật / BTTM các loại Chiến đỉnh SWIFT và NASTY, do một số thủy thủ đoàn ngoại quốc chỉ huy. Các Chiến đỉnh này có tốc dộ nhanh và được võ trang để tự vệ nếu bị Hải quân Cộng sản tấn công. Tuy vậy, các tàu này chỉ có tầm hoạt động ngắn, không qua vĩ tuyến 20. Sau này, sau khi Mac-Sog đảm trách yểm trợ NKT / BTTM, Sở Phòng vệ Duyên Hải được tăng cường các chiến đỉnh lớn PFT ( Patrol - Torpedo - Fast ) có tầm hoạt động xa, tốc độ nhanh và trang bị hỏa lực mạnh.
Các loại tàu này không những có khả năng tự vệ mà còn có khả năng đánh phá và tấn công các mục tiêu Cộng Sản nếu cần. Bộ Tư lệnh Hải Quân cũng được chỉ thị cung cấp các thủy thủ đoàn cho các chiến đỉnh này. Các hoạt động đặc biệt do Sở Phòng Vệ Duyên Hải thực hiện đều nằm trong sự kiểm soát và trách nhiệm của Nha KT / BTTM, không có liên hệ nào đối với Bộ Tư Lệnh Hải Quân và hoàn toàn được bảo mật tối đa. Các Thủy thủ đoàn này đều nằm trong Lực lượng Hải tuần trực thuộc Sở Phòng Vệ Duyên Hải. Sở này được một vị cấp Tá do BTL / HQ biệt phái chỉ huy. Vị chỉ huy trưởng đầu tiên là Trung Tá Hồ văn Kỳ Thoại, sau này được thăng cấp Ðề Ðốc. Các Toán người Nhái và hoạt động được gọi là Biệt Hải và thuộc Lực lượng Biệt Hải của Sở này. Cá Toán này được huấn luyện và thi hành những công tác đặc biệt tương đương với các Toán SEAL ( Sea Air Land ) thuộc Lực lượng Hoa Kỳ. Toán viên Biệt Hải được huấn luyện về bơi lội, xử dụng Scuba, Nhảy Dù ngoài những kỹ thuật hành quân đặc biệt khác.
Toán có khả năng xâm nhập nhảy dù xuống các vùng mục tiêu dọc theo miền duyên hải, xử dụng bãi nhảy sát bờ biển hay cả trên mặt nước. Sau khi hoàn thành công tác, Toán có thể triệt xuất bằng cách bơi ra khỏi để được tàu tiếp đón và đưa về căn cứ ở Miền Nam. Các công tác này rất nguy hiểm nên phải được thiết kế một cách chi tiết và thận trọng.
Sau hiệp định Paris, hoạt động của Sở này bị giảm thiểu đáng kể và sau đó được tăng phái hành quân cho các Quân đoàn để thi hành một vài công tác đặc biệt tại các vùng do Cộng Sản kiểm soát tại miền NAM.
Một bộ phận hoạt động quan trọng khác trong hệ thống trách nhiệm của NKT / BTTM là Sở Tâm Lý Chiến. Tuy rằng trong thành phần tổ chức của Bộ Chỉ Huy Nha, Sở Tâm Lý Chiến là một đơn vị hoạt động không phải thuần túy tham mưu. Sở này sử dụng đa sồ chuyên viên dân sự để điều khiển các hệ thống phát thanh và các công tác chiến tranh chính trị khác nhằm yểm trợ cho cho hoặt động đặc biệt tại miền BẮC. Sở có trách nhiệm điều khiển hai hệ thống phát thanh. Ðài Tiếng nói Tự Do là một hệ thống phát thanh " Xám ", tiếng nói của những người mến chuộng Tự Do chống đối hệ thống tư tưởng Cộng Sản. Một hệ thống phát thanh bí mật khác là Ðài " Gươm thiêng ái quốc ", tiếng nói của Mặt trận Giải phóng Miền Bắc, nhằm hỗ trợ cho các công tác của các Toán đặc biệt nằm trong lãnh thổ Miền bắc. Ngoài công tác phát thanh, Sở TLC / NKT đã thực hiện nhiều công tác ly gián, lừa địch, sử dụng các Hồi chánh viên và Tù binh chính qui Bắc Việt.
Hai Ðài phát tuyến Cồn Tre tại Quảng Trị và Thanh Lam tại Huế có tầm hoạt động rộng lớn bao gồm cả lãnh thổ Bắc Việt cho đến biên giới Hoa Việt. Phần lớn các hoạt động Tâm lý chiến và phát thanh đều được cơ quan Tình Báo Hoa Kỳ tài trợ và cố vấn về kỹ thuật. Sau này, Ðài Gươm Thiêng Ái Quốc chấm dứt hoạt động vì tình hình chiến sự và chính trị thay đổi. Ðài " Mẹ Việt Nam " được nối tiếp để duy trì công tác phát thanh của Nha Kỹ Thuật.
Ðại Tá Trần văn Hổ nhậm chức Giám đốc Nha Kỹ Thuật / BTTM kể từ năm 1964 cho đến tháng 8 năm 1968. Chính trong thời kỳ này rất nhiều kế hoạch và hoạt động đặc biệt nhằm vào lãnh thổ miền Bắc được thực hiện. Sau vụ tấn công của Cộng Sản vào Tết Mậu Thân và các cuộc hòa đàm giữa Hoa Kỳ và Bắc việt tại Paris, hoạt động đặc biệt lần lần bị giảm thiểu, nhất là những công tác ngay trong lãnh thổ Bắc Việt. Các công tác này được tập trung và gia tăng tại các vùng giáp tuyến và các vùng biên giới Lào Việt, Miên Việt. Ðại Tá Ðoàn văn Nu được Ðại tướng Tổng Tham mưu Trưởng bổ nhiệm làm Giám đốc thay thế Ðại Tá Trần văn Hổ vào khoảng tháng 8 năm 1968 và tiếp tục chỉ huy Nha Kỹ Thuật cho tới ngày cuối cùng của Nha.
Trong thời kỳ này, tình hình chiến sự và chính trị thay đổi, đặc biệt nhất là đường lối của Hoa kỳ đối với chiến trường Việt Nam không còn quyết tâm như trước, do đó các công tác đặc biệt không còn được hỗ trợ mạnh mẽ như trước năm 1968. Tuy vậy, Nha Kỹ thuật / BTTM vẫn tiếp tục thực hiện nhiều thành tích đáng kể. Các Toán hoạt động tuy không phải xâm nhập vào lãnh thổ Bắc Việt hoặc sâu vào biên giới Lào Miên, được trực thăng vận ngay vào các khu vực địch kiểm soát. Các cuộc hành quân này cũng không kém phần quan trọng và còn nguy hiểm hơn nhiều. Các Toán này đã gây trở ngại và làm chậm mức xâm nhập của Cộng Sản trong mưu đồ xâm lược miền NAM Việt Nam.
Các Toán hành quân của Nha Kỹ thuật, dù thuộc một đơn vị nào cũng luôn luôn chứng tỏ tinh thần dũng cảm, đầy nhiệt huyết, xem sự chết nhẹ tựa lông hồng, chiến đấu oai hùng trong mọi nguy hiểm và hoàn cảnh khó khăn. Cuộc chiến đấu chống Cộng tuy đã chấm dứt vào cuối tháng 4 năm 1975, nhưng tinh thần của cuộc chiến và những giờ phút oai hùng đó không dễ gì phai mờ trong tâm trí cũa những Cựu Chiến Sĩ Nha Kỹ Thuật này.
Viết tại Winston-Salem, North Carolina
Cựu Quân nhân Lữ Triệu Khanh
Thuộc Nha Kỹ Thuật / BTTM
No comments:
Post a Comment